Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt - Tùy Tâm Sở Dục - Chương 185: Hồi Ba Mươi Tám: Những dấu chân hoang qua miền Vạn Kiếp (b)
- Home
- Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt - Tùy Tâm Sở Dục
- Chương 185: Hồi Ba Mươi Tám: Những dấu chân hoang qua miền Vạn Kiếp (b)
Stephen Đoàn nghĩ liền đến ông già của anh, tức Đoàn Tòng.
– Em không nghĩ ba anh dám nhúng tay vô đâu. Ổng thoát được sự truy tố năm đó là ổng mừng hú vía rồi, sao dám kiếm người lùng bắt em và nhân chứng giống em để bị giới điều tra “quật mộ” nữa.
Sáu Quới gật gù:
– Cũng có lý ha.
Sau một lúc mím môi nghiền ngẫm, Ignacio Cường bấy giờ mới lên tiếng:
– Có thể là chiêu “Đả thảo kinh xà” mà thôi. Họ muốn thử coi thái độ của cô đó, cô Xuân.
Kiều Xuân nhìn thẳng mặt chàng Y-Nhã mà nói một cách dứt khoát:
– Dạ, tôi cũng nghĩ như anh vậy.
Bà Ái Liên sợ rằng con nhỏ lụy tình lại rối trí nên biểu mấy cậu trai mau đi tắm rửa và thay đồ mới, kẻo trúng gió là đổ bể hết lịch trình.
Vừa đặt mấy con gà rô-ti theo kiểu Lễ Tạ Ơn lên bàn tạm của cái bếp, Quế Trân vừa quay qua nhắc Đô-rê-mon nhớ nướng lại bánh mì baguette. Chàng mập Cao Đài hơn Stephen Đoàn ở hai điểm: Nhiều mỡ hơn và Thạo việc bếp núc hơn, thành thử ai nấy đều yên tâm để chàng ta tự tung tự tác trong gian bếp mà không cần cử ai dòm chừng hay phập phồng lo sợ cháy nhà.
Gian bếp lạnh lẽo nhờ mùi hương “Febreze Air – Hawaiian Aloha” mà trở nên ấm áp khôn cùng. Không hiểu bằng cách nào mà người ta có thể “đóng khuôn” hương nắng gió Hạ-Uy-Di vô một cái chai nho nhỏ, để người dân xứ khác có thể cảm nhận bầu không khí nơi đây mà không cần đến hòn đảo thiên đường đó. Mùi này không quá nồng nên những ai trong nhóm lữ du bị kỵ dầu thơm cũng không cảm thấy bị gắt mũi.
– Dì Liên. – Ignacio Cường ngó bà cư sĩ đầy ái ngại.
– Sao cậu?
– Có thể cạo gió cho Ngọc Mỹ được không?
– Để cho con Xuân cạo cũng hổng có bầu với nhau được đâu. Có gì cậu ngồi đó giám sát hai đứa nó đi, tôi lỡ tay làm cơm mất rồi.
Ignacio Cường miễn cưỡng đồng ý.
Cho nên mới có cái cảnh Kiều Xuân cạo gió cho Stephen Đoàn mà y như đang tái-hiện hiện-trường vụ án dưới sự chứng kiến của Tổ Trọng Án vậy.
Ignacio Cường bỗng nói lớn:
– Lát nữa tôi bắt gió cho thằng chả. Cô đừng có…
Kiều Xuân chắp tay xá dài:
– Dạ, anh làm giùm, tôi mang ơn không hết nữa là.
Henrico Thạnh và Louis Quế dòm nhau mà che miệng cười tủm tỉm, làm JB Khải cũng bắt tức cười theo.
Sau khi uống xong viên Decolgen không gây buồn ngủ, Stephen Đoàn theo chân anh em đồng Đạo và “Eva – Xuân” người trước – người sau xuống nhà bếp ăn tối. Riêng Quế Trân thì đã lên phòng nằm ngủ vì chứng sình bụng do bội thực gây ra; thường ngày chỉ ăn lưng chén cơm với chút xíu đồ ăn và nửa chén canh, đi với ông mập ăn uống quá sức chịu đựng của bao tử nên bây giờ khó tiêu muốn chết.
Sáu Quới giới thiệu:
– “Phiên chợ làng bên” là của nhạc sĩ Tuấn Khanh sanh năm 1933, và cụ là Bắc Kỳ chánh khẩu.
Henrico Thạnh bật cười sảng khoái:
– Vậy mà sáng tác được một bài hát theo giọng Nam Kỳ?
Ông Thầy Sáu gật gù:
– Cụ có bài “Chiều biên khu” do Nhật Trường – Trần Thiện Thanh ca hay lắm.
JB Khải lắc đầu mà cười biểu:
– Đúng là “Không nên đánh giá cuốn sách thông qua cái bìa”.
Sau giờ cơm, nhóm Linh mục tắm rửa sạch sẽ rồi xúm lại đọc Kinh Tối. Vị trí mà chọn là ở trên sân thượng của tòa biệt thự. Ai nấy đều mặc áo chùng thâm, mang vớ trắng và giày da, tóc tai chải chuốt đàng hoàng. Lúc bấy giờ mảnh trăng khuyết của vắt Thượng Huyền đã cheo leo trên đỉnh trời đen đặc, những ánh sao đêm sớm đã bị lu mờ bởi hàng hàng lớp lớp đèn điện, thảng trong không khí hương biển đâu đây.
Khuya ấy, Kiều Xuân gởi qua máy của Stephen Đoàn ca khúc “Tìm trong giấc mơ” của nhạc sĩ Bảo Ân do Ngọc Lan ca; và chàng đã đáp lại bằng bài hát “Ru Em một đời” của nhạc sĩ Trường Sa qua phần trình bày của Sĩ Phú. Ý của chàng đã quá rõ ràng rồi, “Ta yêu nhau trong mơ, thế thôi.”
…
Longiuns Kiến dẫn xấp nhỏ đi thăm một họ Đạo gần khu vực biển Hà Tiên từ lúc sáng sớm. Bà Ái Liên hẹn trưa nay sẽ đi ăn ở một quán gia đình, nếu không còn bàn trống thì sẽ tính sau.
Đi thăm nhiều tỉnh rồi mới thấy, hình như chỉ có Giáo xứ St. Padre Pio là không xây mới nhà thờ cũ hay có nhà thờ của Giáo họ. Để giúp Giáo dân không bị tốn tiền vô ích, Đức Cha Vinh Sơn – Cao Nhật Trung khuyên rằng chỉ nên xây một Thánh đường, một nhà tạm, một hội trường, một nhà để xe và một lưu xá mà thôi; và tuyệt nhiên đừng nên lập nhà thờ “họ” của ai hết. Do đó đất trống trong Giáo xứ mới còn nhiều như ngày hôm nay. Ngay cả thân sanh của Cha, Cha cũng dặn khỏi gọi “Cố” chi sất; vai vế mình thế nào thì gọi ba – má của Cha thế nấy, tỷ như nhỏ tuổi hơn thì gọi “Chú” và “Thím” và lớn tuổi hơn thì kêu “Con” hoặc “Cô – Cậu” chẳng hạn.
– Cường. – Longiuns Kiến vỗ vai con trai.
– Sao Thầy?
– Độ rày Giáo xứ có tốn tiền không?
– Dạ, làm lại đường ống dẫn thủy, cất nhà máy chế biến rác thải và nước thải, lắp đặt thủy đài dự trữ và làm sạch nước mưa để bà con có cái mà xài mỗi khi cúp nước bất thình lình. Hết rồi Thầy.
– Chỗ thờ phượng không có bỏ đồng cắc nào hả?
– Xây nhà thờ cho cao để người què không thể vô dự Lễ được hả Thầy?
Longiuns Kiến ngẩn người nhìn con trai.
– Nhà thờ phải thiệt thấp, thiệt là thấp tới nỗi không ai cảm thấy bị phân biệt đối xử hay được nghinh mặt như con cóc đón mưa.
– Con nói Thầy mới để ý, nhiều nhà thờ xây cao quá, không hiểu nếu Giáo dân đau yếu, già cả, đang mang bầu, mới sanh hay bị tật nguyền thì làm sao mà bước lên nổi. Thầy đã từng sang Hoa Kỳ, và thấy phần đông nhà thờ Kitô Giáo thường chỉ có vài bậc thang, đã vậy họ còn có lối đi riêng cho người cần nữa.
Henrico Thạnh gật đầu:
– Có lẽ Cha Vinh-Sơn đã từng tu học bên Pháp nên đã chú ý tới điểm này, thành thử công trình nào của Giáo xứ đều có lối đi riêng cho người cần.
– Đúng rồi đó con.
Một đứa nhỏ ôm xấp vé số tới mời nhóm Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế mua giùm mình. Biết ba đứa kia không có tiền nên Longiuns Kiến bỏ tiền túi ra mua; ông mua cả thảy mười tờ và không lấy tiền thối. Henrico Thạnh mời nó ăn hủ tíu, nó gật đầu ngay tắp lự.
Ngó đứa nhỏ ăn hủ tíu mà Longiuns Kiến cảm thán nói:
– Có người đi nước ngoài học mà trí sáng, có người sang tận bên bển rồi mà càng ở càng ngu, lầm lạc và nanh ác.
Trước lúc về rước Khắc Xương và ba người đẹp, Longiuns Kiến ghé cây xăng đặng bơm thêm dầu cho chiếc xe. Thấy nó còn lưng lửng thì nên đổ liền, đừng đợi sắp hết rồi mới chế vô, làm vậy sẽ khiến chiếc xe mau xuống và chạy yếu.
Kiều Xuân và Quế Trân đều diện đầm bông và mang giày búp-bê. Do không quen mặc đầm nên Quế Trân phải bận thêm một cái quần ngắn bên trong cho đỡ sượng; vốn đã nhỏ con, lại lùn, nên trông nàng chẳng khác nào một cô học trò mới chớm dậy thì đôi ngày.
– Nhớ đi một hàng nhen mậy.
Quế Trân nhón chân mà nhéo lỗ tai thằng bạn rồi bặm môi nói:
– Biết rồi mà.
Bà Ái Liên nhìn Sáu Quới mà nghĩ đến thằng con. Năm đó, nó nhất mực đòi đi xuất gia, bà hết lời khuyên can mà không được, sau cùng phải để cho nó toại chí luôn. Bao nhiêu tài sản nó đều để lại cho bà, nhưng bà đã gần sáu mươi thì còn hưởng được bao lâu nữa đây? Trong nhà lại không có một đứa cháu ruột thịt nào hết…
– Không có má con của chị, tụi em không biết đào đâu ra lữ phí cho mấy chuyến đi này. – Louis Quế vừa nói vừa sửa lại tư thế ngồi.
Bà Ái Liên vừa bới tóc vừa cười tươi:
– Không có mấy cậu thì tôi đâu có cơ hội được làm lữ du.
– “Lữ du”? – Longiuns Kiến vuốt râu cười hề hà. – Lâu rồi mới nghe lại nghen! Nhớ quá cái thời hướng đạo năm xưa…
Louis Quế chọn bài “Hà Tiên” của nhạc sĩ Lê Dinh qua phần trình bày của Thanh Tuyền. Nhạc sĩ Lê Thương cũng có viết một bài về xứ Hà Tiên thuộc dòng Cửu Long giang mang tên “Nàng Hà Tiên”, đã được Anh Khoa trình bày thật hay và dạt dào cảm xúc. Ông Sáu Tửng bình phẩm trong lúc lột bao bì kẹo sing-gum “Lotte Xylitol” hương bạc hà – chanh:
– Bài này theo ý tôi Ngọc Lan ca không hay, cái giọng của chỉ một đằng mà giai điệu đi một nẻo, nghe trớt quớt dữ lắm.
Mợ Hai lắc-lắc đầu mà cười biểu:
– Vậy chớ sẽ có người chê Thanh Tuyền – khen Ngọc Lan đó chú.
– Dạ, mỗi người một nét thường thức riêng, “Ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép nghe” há chị há?
Khắc Xương nhận xét:
– Mà ông Dinh khen Hà Tiên còn hực hỡ hơn đất Tô Châu quê người nữa. Công nhận ổng thương xứ ổng ghê, sáng tác quá trời “Bài ngợi ca Quê Hương” luôn.
Qua những cung đường mới làm bằng phẳng, chiếc xe tìm về một xóm miệt vườn nằm đìu hiu bên bờ biển Hà Tiên. Người dân ở đây nửa sống bằng nghề chài – lưới, nửa sống bằng nghề trồng trọt và nuôi gia súc – gia cầm; bao nhiêu sản vật kiếm hay làm ra họ đều đem tới chợ bán hoặc bỏ mối cho những quán xá, nhà hàng và khu nghỉ dưỡng trong vùng. Bữa nay nguyên đoàn đến đây là để ghé chơi một tiệm ăn gia đình nằm trong một vườn trái cây sum sê và thơm phức; nghe dân địa phương rỉ tai thì vườn này bán quýt đường ngọt nhứt, nhưng giá khá cao và mau hết hàng, ai muốn ăn phải canh dữ lắm mới đặt mua được.
Khắc Xương như chim sổ lồng, vừa bước xuống xe liền sà lại sạp hàng mà ăn thử trái cây. Chủ vườn rất dễ thương, dẫu khách ăn no bụng rồi đi luôn cũng không đốt phong long hay dảnh mỏ lên chửi đổng, chỉ cười hề hà và dặn chừng nào muốn mua thì nhớ đặt trước mấy ngày; nhờ vậy mà mối mang ngày càng đông và tiếng lành ngày một thêm.
– Ăn vú sữa không cô Trân? Ngọt lắm… Tôi mời ăn vú sữa chớ tôi đâu có biểu… Ui da đau!
– Biết tên nó dzậy rồi mà còn la lớn nữa. – Quế Trân dẩu môi. – Mà mua về ăn từ từ, ăn quá… À mà thôi, cái thùng nước lèo của ông chứa bao nhiêu mà hổng hết.
– Con gái, nghe Tía nói nè con, con đang bận đầm nha. Một hàng thôi nha, đừng đi chữ Bát.
– Quên. – Quế Trân mệt mỏi sửa tướng. – Tao mà được đầu thai lại tao làm con trai như mày cho phẻ. Muốn leo trèo, tắm sông sao cũng hổng bị ai dòm ngó hay rầy rà hết.
– Con gái người ta mà mày kêu kỳ vậy Thạnh?
Quế Trân phân trần:
– Hổng sao đâu Thầy. Con với nó mà xưng – hô theo kiểu sách vở là lăn đùng ra chết ngắt hết.
– Hai đứa bây thiệt tình… – Longiuns Kiến chỉ còn biết lắc đầu cười.
Con gái của chủ vườn là ca sĩ Tân – Cổ Nhạc, thường được mời đi lưu diễn nên ngày nào cũng ngồi ôm đờn kìm mà luyện thanh và luyện cầm. Bữa nay cô diễn lại một trích đoạn trong tuồng “Hoa rụng giữa Thiền môn” của soạn giả Viễn Châu, cô ca rất mùi nhưng vì thiếu hợp xướng nên phần trình diễn nghe có hơi lọt chọt và kém hay. Sắc mặt cô quạu quọ khôn cùng, đã hẹn trưa nay cùng nhau ôn bài mà giờ này hai khứa ôn dịch đi đâu mất tiêu, ngày mốt phải ra sân khấu rồi mà…
– Tôi có thể thổi sáo giùm cô không?
Mới đầu thấy người khách mặt mày thẹo không thì cô rất sợ, nhưng chừng nghe thấy tiếng tự dưng lại cảm thấy yên tâm. Cô đưa cây sáo cho chàng khách rồi than rằng phải chi có ai khảy đờn bầu thì hay quá. Vậy là người khách phì lũ dè dặt đánh tiếng, té ra chàng ta có chân trong ban Lễ – Nhạc của Đạo Cao Đài nên biết chơi một vài loại nhạc cụ Quê Hương.
Trong lúc chờ đợi món ăn dọn lên, những người kia ngồi coi bộ ba ấy biểu diễn Tân – Cổ Nhạc. Tiếng đàn bầu réo rắt hòa với tiếng sáo du dương cùng tiếng đàn kìm da diết và tiếng hát mùi mẫn đã làm cho trích đoạn thật tròn trịa và giàu cảm xúc.
Trước lúc để cho hai người bạn cầm trở về bàn ngồi ăn, cô ca sĩ trung niên bắt tay với họ và cúi đầu cảm ơn từng người một tiếng.
Trên bàn đã bày sẵn đủ món, gồm có các món như sau: Lẩu cù lao, cà-xỉu, gà mái dầu nướng ớt sa-tế, tôm tích chiên rồi rưới sốt trứng muối, hải sâm xào dưa leo và gỏi bắp chuối – ốc vòi voi. Ai nấy đều uống rượu pha nước ngọt, thức uống ấy tên là “Jack Daniel’s RTD – Jack and Coke” do hãng rượu lừng danh “Jack Daniel’s” kết hợp với hãng nước giải khát nổi tiếng “Coca – Cola”.
Bà Ái Liên vừa chuyền đũa cho từng người vừa hỏi:
– Đi chơi chuyến này chắc mấy năm nữa mới có thể tương phùng há mấy cậu?
– Dạ. – Ignacio Cường cười. – Vui thêm hai bữa nữa là tụi con phải về Giáo xứ quản Đạo rồi.
Cư sĩ Ái Ly cũng cười mà rằng:
– Đường Tăng còn ngã lòng vì một bóng hồng mà.
Sáu Quới pha lửng:
– Ông này là Đường Tăng, còn ông kia là Huyết Áp Tăng…
Chưa nghe hết câu mà bạn bè của Sáu Quới thảy đều cười nghiêng ngả.
Trời bỗng dưng đổ mưa. Mưa lắc rắc, chỉ đủ làm người ta sụt sịt mũi hay phải cạo gió vài đường. Thảng trong hương mưa man mác là mùi mằn mặn của gió biển từ khơi xa thổi vào sâu trong đất liền. Ngồi trong đình mát vừa nhậu vừa ngắm mưa bay, thật không gì thú bằng.
Rồi thoắt một cái, dông ở đâu kéo đến. Dù mái của đình mát đã chồm ra hơn nửa thước song người ngồi trong đình vẫn bị mưa tạt trúng. Gió rít từng cơn qua tán cây – kẽ lá và làm yếu ớt đi ngọn lửa cồn của cái nồi lẩu cù lao sắp cạn. Khắc Xương ăn không đủ giắt kẽ răng nên gọi điện thoại cho chủ quán mà đặt thêm vài món; sau chục phút hội ý, anh kêu món sườn nướng mật ong, chả mực, gà – vịt xác chiên, hột vịt lộn nướng mỡ hành và trứng cút xào mắm me.
Đợi trời ngớt mưa hẳn, nguyên đoàn mới trở về biệt thự. Đêm mai họ sẽ ghé Vĩnh Long để trả xe rồi đường ai nấy đi.
Thể theo ý của Stephen Đoàn, Louis Quế mở bài “Mưa đầu mùa” của nhạc sĩ Nhật Bằng do Sĩ Phú trình bày. Trên vòm trời ngập nắng có cầu vồng đôi, hai chiếc cùng bắc qua một khu phố sầm uất và rộn rịp. Lâu lâu, mưa lại rắc qua một chập; làm ướt nhem đường và làm dịu phần nào cái nóng của những ngày cuối Xuân.
Trước lúc lên xe ra về, nguyên đoàn mua mấy hộp bưởi lột sẵn để ăn cho mau tiêu thực.
Tưởng đâu “Đường xưa lối cũ” bình yên, ai dè mới chạy ra đầu lộ đã bị mất tươi năm mươi đồng. Vẫn như lệ cũ, bà Ái Liên trước khi cúng sẽ đọc Chú Vãng Sanh.
Quế Trân vừa nhai bưởi vừa che miệng hỏi bà Ái Liên:
– Cô thích sưu tập nước xịt phòng quá há cô?
– Phải. Kể từ sau ngày xém sẩy thai, tự nhiên cô bị dị ứng mùi hôi tột độ, thành ra thấy ở đâu hơi thum thủm là phải dập liền.
Khắc Xương tặc lưỡi:
– Cái mùi máu với nhớt nhau tanh dữ lắm.
Sáu Quới bình phẩm:
– Hèn gì mà mấy người phá thai thường bị ám ảnh với máu và ghét mùi hôi.
Nói đoạn, bà Ái Liên nhờ cậu em và mấy đứa nhỏ xịt giùm chai “Febreze Air (Gain) – Moonlight Breeze” khắp xe. Hương thơm dịu dàng ấy làm những người chưa từng ngửi qua đều mang cảm tưởng như đang lạc vào một thảo nguyên xanh có ánh trăng thanh diễm ảo.
– Không nuôi nổi thì đừng có đẻ thêm đứa nào nữa, chú Quới.
– Dạ, chắc tụi em sẽ tính nước ngừa thai cho cả hai đứa luôn. Ý là thằng cu kia bú sữa mẹ mà sống nên đã bớt được một khoản tiền nuôi con, vậy mà trong nhà vẫn thiếu trước hụt sau, đến nỗi cái xe em cũng không mua nổi cho vợ nữa.
Quế Trân khều bà Ái Liên mà thưa rằng:
– Bài hát mà bữa cô giới thiệu á, con ưng bản Telugu hơn.
– Tùy gu mỗi người chớ con, cô đâu có ép.
Sáu Quới tặc lưỡi:
– Mà công nhận tiếng Telugu dễ soạn nhạc hơn. Mấy thứ tiếng khác coi mòi khó gò vô nhịp hơn.
Bà Ái Liên kể:
– Diễn viên đóng vai Chúa Shiva lớn hơn Saurabh khá nhiều nên lúc đóng phim này thì coi già hơn Saurabh. Ngược lại, lúc mà Saurabh đóng phim về Chúa Shiva do cậu này thủ diễn thì Saurabh hãy còn quá trẻ nên mặt dòm non choẹt và không hạp vai bằng lúc đóng phim này. Và hai cậu này là đôi Shiva – Vishnu mà dân Ấn Độ khen nhiều hơn là chê.
Quế Trân che miệng hỏi:
– Phim mà Chúa Shiva là vai chánh tên gì cô?
– “Mahadev Ki Mahima”, hay còn có tên khác là “Kaisalanathan”. Coi tập 191 và 192 có sự xuất hiện của cả hai cậu này. Đương nhiên, kỹ xảo của phim này cũng không có tốt miếng nào hết.
– Đó là điểm yếu của rất nhiều phim Ấn Độ mà.
– Được cái diễn viên quá đẹp trai nên châm chước được.
Khắc Xương trề môi:
– Rốt cuộc các vị mê sắc chứ đâu có mê phim.
Quế Trân huýt háy:
– Chớ sao.
Khu biệt thự mà nguyên đoàn đến ở bữa nay trở thành phim trường cho một bộ phim đang ăn khách. Để tránh ống kính máy quay phim, nguyên đoàn phải vào nhà bằng cửa sau.
– Nè, mấy đứa, anh nữa, lại chọn một chai đi. Phòng ốc thơm tho ngủ mới ngon chớ.
Bà và hai nhỏ gái chọn chai “Febreze Air – Serene Vanilla Sunrise”. Mấy đứa con của Longiuns Kiến thì chọn chai “Febreze Unstopables Air – Paradise”. Riêng ông Thầy Dòng lấy chai “Febreze Air – Downy Calm”. Còn Khắc Xương ưng mùi “Febreze Mist Air – Air Freshener Fruity”.
– Tôi muốn ngủ riêng. – Y-Nhã Cường vừa nói vừa lấy chai “Febreze Air – Mediterranean Lavender”.
Khắc Xương hỏi:
– Đem nhiều vậy cô có sợ làm cái bùm không cô?
Bà Ái Liên bật cười mà đập nhẹ vào cánh tay núng nính mỡ của đứa trai nhỏ tuổi hơn con mình:
– Đâu, cô toàn lựa mấy chai gần hết không hà, nên đâu có sợ nổ.
Về phòng ngủ trưa được đâu hai chục phút, một cuộc gọi của cố Peter Toàn đã đập tan giấc mộng đẹp của nhóm Linh mục. Louis Quế là người đầu tiên bắt máy, chú càm ràm trách:
– Gọi một đứa thôi, cố làm gì mà “Lập nhóm” cho ồn ào vậy?
– Sợ mấy đứa bây trốn không bắt máy, nên hốt được thằng nào thì lẹ được chừng nấy.
– Để con mượn Laptop của thằng Cường. Nó mới được ghệ sắm cho…
– Cái gì? Thằng Cường có ghệ rồi?
– Con ghẹo xíu mà cố la dữ quá.
– Mày muốn tao chết sớm lắm hả mày? Ghẹo gì bất nhân thất đức dữ vậy?
– Cái cậu sư thầy mua làm quà kết nghĩa huynh – đệ. Chrome Book, xài đã tay dữ lắm. Trước lúc qua Kiên Giang, cẩu đã mua cho con một cái để con có “cần câu cơm” nuôi gia đình.
– Đi đường có gặp cô hồn trái mùa không bây?
– Nhóc luôn.
– Rồi có đứa nào “Hát cho linh hồn Anh” không?
– Có, nhưng là bài khác, bà Ái Liên tụng “Chú Vãng Sanh”.
– Nhỏ đó cũng xéo-xắt dữ. Làm tao nhớ bà-xã tao hồi trẻ quá.
Nói tới đây thì Sáu Quới đã đến trước cửa phòng của ông Cha Cọp. Chú gõ cửa ba lần, rồi xây qua nói chuyện với cố Phêrô Toàn:
– Bà con tham dự Thánh Lễ sao cố?
– Mặt đứa nào đứa nấy hầm hầm như bị đẩy ra chiến trận. Cũng may Cha Dương vui tính nên bầu không khí mới bớt căng thẳng, không có nó chắc không ai chịu đi Lễ đâu.
– Còn Ngọc Mỹ?
– Bên bênh, bên chống, bên thờ ơ.
Louis Quế chép miệng ngán ngẩm. Đoạn hỏi:
– Còn Đức Cường?
– Không có đứa nào dám hé miệng nhắc tới.
Louis Quế đỡ trán cười khổ.
– Nãy giờ chú nói chuyện gì với cố vậy?
– Cho mượn Laptop đi Cường, màn hình lớn dòm đủ mặt hơn.
– Cái của chú đâu?
– Đang tải tập tin xuống, không thoát ra được.
Longiuns Kiến hãy còn chưa ra, ông còn đang bị kẹt trong nhà tắm, ham ăn – hốt uống làm chi có cái thân già càng thêm bải hoải.
Mục đích cuộc gọi hôm nay của cố Peter Toàn là để giới thiệu những Giáo dân mới nhập xứ. Nhóm này đứng về phe ủng hộ Stephen Đoàn và kịch liệt lên án những ai chống ông Cha Phó.
– Quân đồng minh này bây kiếm ở đâu ra vậy?
Stephen Đoàn kể hết duyên cớ gặp được người tín hữu kia.
– Hèn chi…
Rồi ông kỹ sư công lộ rầu rầu kể:
– Nó biểu, “Cha tốt vậy gái theo là đúng rồi.”
Louis Quế le lưỡi:
– Nó binh như vậy bằng mười hại thằng Mỹ.
Cố Phêrô Toàn trề môi cả thước:
– Nó đẻ ở Việt Nam mà tao tưởng đâu nó đẻ ở thời Đông-Châu liệt quốc, đi làm thuyết khách cái mỏ dẻo-đeo hà. Giờ số người ủng hộ đông hơn số người phản đối.
Đã đến giờ cố phải đi tái khám nên cuộc trò chuyện giữa đôi bên chấm dứt. Trước lúc biểu thằng cháu lại tắt giùm cái máy tính xách-tay, cố gửi qua một tập hình ảnh mà đám “Địa-Phương Quân” chụp được; nghe đâu mấy người trong ảnh là tay sai của tên chủ thầu mà Ignacio Cường đã nhiều lần đuổi đi.
Y-Nhã Cường không về phòng riêng mà leo lên giường của JB Khải và Stephen Đoàn ngả lưng nằm xuống. Mục sư Khiêm đã dặn cuối tháng này anh phải lên kiểm tra cái chân bị chém, đặng có gì bất thường thì còn cứu chữa kịp thời, chứ ỷ y bỏ qua riết sẽ khiến cái chân từ què tạm thời sang liệt vĩnh viễn.
Sáu Quới mở bài “Tâm sự nàng Buram” do Giao Linh ca lên nghe, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Ngân Giang và Vinh Sử; điểm độc đáo của ca khúc này là được đặt lời trên nền nhạc của người Chàm. Chú đã tải xong tập tin và chuyển vào IClound. Bây giờ chú sẽ nghe nhạc và thiết kế website cho khách. Không biết về nhà vợ chú sẽ đón tiếp chú bằng sắc mặt nào nữa đây.
– Cái chân của anh còn đau không Cường? – JB Khải nằm xuống cạnh bên mà hỏi.
– Xuống bếp lấy con dao chặt chân thử đi là biết liền hà.
– Cũng may nó còn dính lại nên dễ trị, chớ mà rớt ra luôn là anh thành “Độc cước đại hiệp” rồi. – Henrico Thạnh vừa nói vừa lấy rượu thuốc xoa bóp hai ống chân của mình.
Stephen Đoàn lên Facebook của Richard Lãm để nghe lại chương trình Kinh Trưa do Đan Viện thực hiện. Vô tới nơi mới hay bữa nay là sinh nhật của chàng ta và vài anh em khác, do đó Viện Phụ – Thomas Tường đã kêu gọi các Đan sĩ kia hùn vốn mua bánh kem và tổ chức tiệc ăn mừng. Cái bánh kem không biết đặt ở đâu mà kiểu dáng rất đẹp mà không quá phô trương; có nhiều nơi đặt bánh kem cho Giáo xứ mà trang trí y hệt như cho lễ cưới, nhìn vừa mắc cười mà cũng vừa phát khóc.
– Đang coi cái gì vậy Mỹ? – Ignacio Cường với tay sang giường bên mà cất tiếng hỏi.
Stephen Đoàn giơ điện thoại lên:
– Bữa nay sinh nhật Đình Lãm.
Ignacio Cường gãi đầu cười trừ:
– Không kịp chuẩn bị quà rồi.
Ngoài kia nắng đã đầy vơi. Tiếng ve sầu lác đác nghe sao buồn thê lương, thiên nhiên của chúng đã mất rồi, bây giờ phải ráng thích nghi nơi công viên của loài người, có phải vì vậy mà giọng hát của chúng không còn hùng hồn như xưa không? Một luồng gió chướng thổi tốc tấm mành tre, đem theo hương thơm dịu dàng của loài trà trắng và cả bụi đường.
…
Xóm diềng ở đây hiền hòa vô cùng. Nhưng ngặt cái ai cũng mắc tội nghèo nên năm thì mười họa mới được người quen ở xa mời đi đám tiệc. Tuy mang tiếng ở thành đô nhưng nếp sống của họ vẫn là ở dưới miệt vườn miền Tây, quanh năm lấy huê màu và thủy sản làm nguồn sống.
– Nhỏ con tui mới thất nghiệp cái sột, giờ hổng biết tiền đâu mà xoay xở nữa.
Đứa nhỏ hành nghề hớt tóc dạo ôm cái trắp đi rảo-rảo quanh xóm để coi có ai kêu nó không, nếu không có ai thì nó sẽ vác xác qua Quận Tư, mấy anh – chị ở bển coi vậy mà dễ thương – dễ chiều lại boa sộp nữa, hớt chừng hai cái đầu là đủ cơm ăn tối nay rảo.
– Nhỏ, lại vanh cái đầu thằng con cô cái.
Maria Bích vừa nói vừa chạy ra hú thằng nhỏ mồ côi vô nhà.
– Dạ, tới liền!
Thằng nhỏ vừa bước tới cổng nhà vợ ông Phó Tế, thằng Tư cũng vừa lót-tót chạy ra – trên tay cu cậu còn cầm theo cái mô-hình xe-buýt sơn màu rằn-ri rất ngầu; đây là món quà mà em nhận được khi tham gia trại hè do trường Thiếu Sinh Quân tổ chức, năm đó là năm ngoái chứ đâu xa.
Vì hai đứa trạc-trạc tuổi nhau nên chúng kết thân rất mau. Con trai chị Sáu cũng thuộc dạng lanh nhưng lanh theo kiểu trường lớp; còn thằng nhỏ kia là kiểu trường đời, thành ra đôi lúc nó quen miệng văng tục hay bỗ bã vài tiếng cộc cằn, những lúc ấy chị Sáu không nỡ la rầy mà lại còn lắc đầu tội nghiệp cho số phận của nó.
– Có đói không con?
Vừa giũ cái khăn dính đầy vụn tóc, thằng nhỏ vừa cười:
– Có, cô.
Vậy là Maria Bích bèn xuống bếp múc cho nó một tô cơm có sườn-heo ram-mặn, trứng cá-thu chiên bơ – tỏi và dĩa rau muống xào tỏi, kèm thêm chén canh mồng tơi nấu tôm-khô, thịt nạc dăm và mướp-hương. Tô, chén, dĩa, muỗng và đũa đều là loại xài một lần rồi bỏ, nên thằng nhỏ sẽ ăn uống mạnh miệng hơn vì không sợ làm hư đồ nhà chị.
Thằng nhỏ tính đứng mà ăn, nhưng chị Sáu dạy nó lại ngồi trên bậc tam-cấp với mình cho khỏi mỏi chân và tránh nắng. Tấm bạt che nắng này do ông chồng già của chị mua biếu ba má vợ, tuổi đời ngót cũng bằng con bé Ba rồi, nên chắc hết mùa mưa năm nay vợ chồng sẽ tiễn nó về với bà bán ve chai đầu xóm và thay thế bằng một đứa trẻ măng. Chị không có tánh gìn giữ kỷ vật, bởi chị coi những thứ này chỉ là của tạm trên trần thế, một mai về với Chúa còn cần tới nữa đâu mà luyến với chả tiếc – mí lị thương với chả tưởng.
Chị Sáu nâng cằm thằng Ba ngắm nghía một đỗi, thầm khá hài lòng với đường kéo của thằng nhỏ cù bất cù bơ. Nó mới có chút nị nên tay cầm kéo chưa cứng và vững, ráng chừng thêm vài năm nữa là điêu luyện hà. Vừa lấy băng-keo trong dán lên những phần da dính tóc vụn của thằng Ba để lấy tóc vụn, chị vừa hỏi thằng nhỏ kia:
– Con có đi học không?
Nó nói mà trong họng còn ngậm đầy cơm nên tiếng nghe ồ à ồ ề:
– Dạ có.
– Cũng là lớp học tình thương chớ gì? – Ba của chị Sáu xen vô. Ông đang tạo dáng cho chậu bonsai mới nhượng được từ tay thằng chiến hữu.
Thằng nhỏ nuốt vội xuống để trả lời câu hỏi của ông già mặc pyjama kẻ sọc trắng ngần – xanh da trời:
– Dạ, chứ tiền đâu con đi học.
– Ai tổ chức? – Ba của chị Sáu lại hỏi.
– Dạ, Mục sư Hiếu với Mục sư Nghệ.
– À, bên Tin Lành. – Ba của chị Sáu gật gù.
Đứa nhỏ ăn cơm no rồi, liền xin chủ nhà cho mượn cây chổi để nó quét sân trước. Chị Sáu không cho, còn cho nó ly trà sữa mà chị mua chưa uống nữa. Nó sụt sùi mà cúi đầu cảm ơn, rồi lầm lũi đeo cái trắp và bước đi về hướng Quận Tư.
Ông Hai ngó con gái mà hỏi:
– Chồng bây vắng nhà mà chưng diện đi đâu đó?
– Dạ, con đi quá giang thôi, chớ không có tụm năm – tụm ba ở đâu hết.
– Bây liệu hồn đó. Thằng rể tao sắp về rồi đó.
– Sao ba hổng binh con mà binh cha già đó?
– Đứa nào đúng tao binh đứa đó, hổng có thiên vị bên nội – bên ngoại gì hết.
Nhờ chồng vắng nhà mà chị Sáu mới có thể rảnh rang đi coi vở kịch có các diễn viên mà chị yêu thích. Trước khi đi, chị thủ sẵn cho thằng cu mấy bình sữa đầy nhóc và cho mình một bịch đựng đầy tấm mút ngăn sữa thấm ra ngực áo.
Vừa bước vô xe là Maria Bích nghe thấy nữ ca sĩ hải ngoại Thùy Dương đang ca bài “Sài Gòn ơi, Tôi còn Em đó” của nhạc sĩ Trường Sa. Bữa nay Andrew Hồ chở chị đi bằng chiếc xe “BMW – 540i xDrive” năm chỗ màu đen bóng-loáng, dầu đã được đi nhiều loại xe sang khác nhưng lên chiếc này chị vẫn bị cảm giác choáng ngợp và không thoải mái cho lắm.
Andrew Hồ nhắc nhở vợ ông Sáu cài dây an toàn, rồi chỉnh lại kính chiếu hậu trước khi giữ chân thắng và kéo cần về D để chiếc xe di chuyển.
– Cảm ơn cậu nghen.
– Không có chi đâu chị. Tiện đường thì cho quá giang thôi.
Rồi vừa đánh tay lái sang phải đặng lách ổ gà, Andrew Hồ vừa hỏi:
– Lát nữa chị với xấp nhỏ ăn gì – tôi bao?
Maria Bích ngại ngùng trả lời:
– Thằng Hai đòi ăn phở gà ở một tiệm bên Quận Chín.
– Vậy thì lát nữa tôi chở chị mua, cũng đã lâu tôi không mua phở gà về ăn rồi.
– Mà nè…
– Sao chị?
– Hỏi khí không phải chứ xe đâu mà cậu đổi hoài vậy?
Andrew Hồ bật cười:
– Xe của mấy thằng bạn tôi, chớ tôi chỉ có một chiếc hà.
Maria Bích ngạc nhiên đến nỗi bật cười:
– Vậy chắc thân lắm nên mới cho mượn xe.
– “BMW” mệt một cái là hễ dừng đèn đỏ là nó tự động tắt máy, mình phải khởi động lại thì nó mới chạy. Cũng chính vì vậy mà cục đề mau mòn hơn.
– Cậu đừng nói mấy vụ xe cộ với tôi, tôi dốt trất hà, mà lại lái yếu nữa chớ.
Andrew Hồ gật đầu với một nụ cười thoáng qua trên môi.
– Hồi xưa học tiếng Anh chung lớp với ổng, thầy giáo yêu cầu mỗi trò dịch một bài hát tiếng Anh sang tiếng Việt, ổng đã viết “Train to Nowhere” thành “Chuyến tàu vô định”…
Đang kể tới đây, tự dưng chị Sáu che miệng cười khúc khích; làm người trai đáng tuổi em chị cũng vui lây nên bật cười theo.
– Ổng dịch sao hay quá mà thầy giáo biểu ổng ra làm nhạc sĩ luôn đi. Nội dung bài gốc ở một đằng mà bản dịch của ổng thì ở một nẻo!
– Cưới chồng lớn tuổi như vậy có bị ngăn cấm không chị?
– Có. Mới đầu ba má tôi hổng cho, sau hai đứa tôi năn nỉ dữ quá nên đành phải tác hợp.
Trong lúc chờ chị Sáu coi kịch xong, Andrew Hồ lại quán bi-da gần đó mà làm vài ván với mấy thằng chiến hữu. Ông chủ tiệm ngày xưa là kỳ phùng địch phủ với Cha Dương và Cha Kiến, cứ hễ Chúa Nhật là ông sẽ qua trường Dòng mà rủ hai thằng huynh đệ đi thục bi-da, và lần nào ông cũng bị Cha Phan-Sinh Hùng dí chạy gần chết.
– Vẫn chưa tìm ra kẻ giả mạo ông Thành à?
Andrew hờ hững đáp:
– Chưa.
Người chiến hữu kia chưa kịp nói thêm câu nào thì điện thoại của Andrew đã reo lên bài nhạc-chuông yêu thích của anh. Anh đổi giọng ngay tắp lự, nhưng sắc mặt vẫn lạnh tanh như nãy giờ, như thể có hai nhân cách đang chia sẻ cơ thể của anh vậy. Kết thúc cuộc gọi, anh ném cây cơ về phía thằng bạn rồi đút tay vào túi quần mà đi một hơi ra xe.
Quán phở ấy nằm ngay góc ngã tư của đại lộ, tuy ở vị trí đắt địa nhưng chủ tiệm vẫn bán với mức giá phải chăng, một tô vừa bụng một người – tức là không nhiều cũng không ít. Ở đây chỉ bán hai món là phở gà và bánh cuốn Thanh Trì, và món nào cũng được ưa chuộng. Về phần đồ uống, thực khách ưng trà táo xọn và nước rong biển, mấy thứ khác uống được chứ không có gì quá đặc sắc để mà uống hoài. Bữa nay nhằm ngày Rằm nên quán không mấy đông khách, chứ còn ngày thường đứng đợi cả nửa tiếng cũng chưa có chỗ ngồi, huống hồ chi là lựa được bàn theo ý muốn của mình.
Chiều theo ý của chị Sáu, Andrew Hồ lại cái bàn sát lối vào mà ngồi ăn với chỉ. Cả hai đều gọi bánh cuốn thập cẩm và phở gà đặc biệt; nhưng Ẩn Long thì uống cà-phê đen đá và Xuân Bích thì uống nước mía lau nấu với rễ tranh và mã đề.
Vừa lấy chai tương-đen xịt vô chén nhỏ, Maria Bích vừa hỏi cậu em:
– Mấy năm nay đi đâu biệt tăm vậy cậu?
– Đi tu học bên nước ngoài.
– À… Nhà cậu ai cũng có cái gene học giỏi hết há… Ông già kia học ở mức được thôi hà nên mấy đứa con cũng không sáng dạ mấy. Mỗi bận ngồi chỉ bài cho tụi nó trần ai lai khổ.
– Thầy Sáu đã từng mổ thanh quản phải không chị?
– Dạ phải. Nghe đâu ổng uống lộn hóa chất hay sao đó, cũng may chưa phải cắt bao tử hay câm luôn. Tôi nhớ cái ngày đó dữ lắm vì ổng hẹn tôi đi coi cải lương mà, để rồi mình ên tôi hát “Hẹn chiều nay mà sao không thấy Anh…”
Nếu như Andrew Hồ nhớ không lầm thì Thầy Sáu đã từng được kẻ giả mạo mời đi dự tiệc gì đó, xong rồi qua mấy ngày sau mới bị nuốt phải thuốc câm. Có thể kẻ giả mạo chỉ có chủ đích là muốn làm cho Louis Quế theo phe mình, nhưng đồng bọn của khứa không tin tưởng ông Sáu nên mới âm thầm ra tay trừ khử. Xem ra người Phó Tế này và cả Cừu Đen đều đang che giấu bí mật nào đó, ngay đến cả người thân cũng bị họ nói dối nhằm bưng bít hết mọi ngõ nguồn tin tức.
oOo
Đã gần tới Hè nên chú Thương nảy ra ý kiến bán kem. Chú chọn những hãng kem bình dân và trước giờ ít hoặc không có tai tiếng. Và nhờ có đám huynh đệ bên Đài Loan, Nhựt Bổn, Đại Hàn, Thái Lan, Mã-Lai, Phi-Luật-Tân, Hồng-Kông và Tân-Gia-Ba mà chú mới liên lạc được cơ sở tại gốc và mua sỉ với giá rất tốt. Chưa biết lời lóm ra sao mà đã thấy mợ Hai cứ hễ đi ra – đi vô lủm mất mấy cây.
Mấy đứa học trò đang vào mùa thi nên hay ra quán của gia đình mợ Hai ngồi học nhóm đặng ăn uống và hưởng ké hơi lạnh của máy điều hòa nhiệt độ. Có khi tụi nó ngồi lì suốt mấy tiếng đồng hồ mà không kêu thêm gì, hai má – con vẫn không hề tỏ thái độ chi sất, ngược lại còn đãi tụi nó uống trà đá hay nước chanh – đường nữa.
Dù quán này hướng tới người trẻ nhưng trong tiệm chưa từng mở nhạc Việt thời nay, K-Pop hay những bản US-UK đang thạnh hành. Nhạc chính yếu thường là những tình khúc Việt trước năm 75 và Âu – Mỹ – Hoa trước Tân Thế-kỷ.
Bây giờ cũng vậy, trong quán đang phát bài “How do I stop loving You?” của Engelbert Humperdinck. Con trai bà lại sầu tình mà lại bắt bà thọ khổ chung với nó.
Đang lấy cây kem “Shaomei – Brown Sugar Boba and Pudding”, Viber của mợ Hai bỗng trỗi nhạc chuông.
– Ông hả? Đang làm gì đó?
– Đang ăn trái cây. Khóm ruột hồng và phúc bồn tử hồng.
– Cha, toàn trái cây lạ không. Chắc mắc dữ hen?
– Khóm mười hai đồng, còn “Rosé Raspberry” bốn đồng.
– Rẻ vậy?
– Ờ, có gì mốt tui về tui đem cho bà một mớ tha hồ ăn.
– Ông thích ăn vải hôn?
– Không, tui thích ăn trái điều hà.
– Ở dưới Hậu Giang tui có trồng mấy cây điều, mốt dìa đây tui cho ăn móp mỏ luôn.
Một người khách ghé mua hai miếng bánh ngọt nên mợ Hai phải tạm ngừng cuộc trò chuyện mà đi giới thiệu sản phẩm cho người ta. Sau mười phút lựa chọn, người khách lấy một miếng bánh Tiramisu cà-phê, một miếng bánh cà-rốt và thêm một ổ bánh bông-lan “núng-nính” vị sầu riêng.
Cách nửa vòng Trái Đất, Vệ Thu đang kiểm tra điện thư để lọc những thơ rác hoặc hồi âm những tin quan trọng. Người giúp việc gốc Mễ đang dọn dẹp bàn ăn, còn bà gốc Việt đang nấu cháo lòng và chiên bánh quẩy cho bữa khuya của ông. Lát nữa ông phải lên phi cơ để đến tiểu bang Florida lo chuyện mối mai – buôn bán, thằng Hai và thằng Ba sẽ hộ tống ông trong chuyến đi này.
– Ba đang nói chuyện với mợ Hai hả?
– Ừm.
Thằng Hai Vệ Kích hỏi cho có tụ rồi rinh dĩa bánh quẩy mới chiên về phòng.
– Chừa tao ăn cháo với mậy!
– Lát thím Bảy chiên thêm.
Vệ Thu đập bàn cái rầm:
– “Nhị Thập Tứ Hiếu” thiếu tên mày.
Vệ Kích nhún vai, rồi lủi đi mất hút. Những người hầu khác không biết tiếng Việt nên không hiểu hai cha con đã nói gì với nhau, nhưng thấy ngữ điệu bình thản của cậu Hai thì biết liền ông chủ và cậu Hai chỉ giỡn chơi thôi.
Tiễn chân người khách sộp xong xuôi, mợ Hai mới đi đủng về quầy thu ngân để tiếp tục chuyện gẫu với ông ghệ.
Ông ghệ chỉ tay vô chai nước và cái ly tẩy mà cười nói:
– Con nhỏ nhân viên của tui bị dị ứng thực phẩm, nhờ uống nước này trong khi dùng bữa mà bịnh tình thuyên giảm rất nhiều.
– Sao ông tin nước này chiết xuất từ nấm quý thiệt?
– Vì ba loại này nấm đều có tác dụng phụ là nếu uống quá liều sẽ bị hạ đường huyết. Thành ra mỗi lần tui uống trọn chai là đầu quay mòng mòng. Chứng tỏ thảo dược thiệt nên mới có tác dụng phụ. Chứ còn uống vô chỉ có bị mắc tiểu là thuốc dỏm rồi.
– Còn lý do nào nữa không?
– Nước này đựng trong chai thủy tinh. Vì tui để ý hễ thuốc dỏm hay thuốc pha thường đựng trong chai nhựa rẻ tiền, còn thuốc thiệt và nguyên chất phải đựng trong chai thủy tinh để bảo quản lâu hơn và nhằm tránh nước bị biến chất mà gây tác hại xấu đến người uống.
– Có mấy loại?
– “GT’s – Alive: Ancient Mushroom Elixir”. Có ba vị: Cola, Matcha Vanilla và Root Beer; tui ưng mùi Trà Xanh Va-ni nhứt.
– Nhắc tới thuốc bổ mới nhớ, chiều nay thằng Hai nấu chè tổ yến với nấm tuyết, thằng Út ăn được không?
Vệ Thu gật đầu.
Vừa hay thím Bảy thông báo đã nấu xong những món mà Vệ Thu yêu cầu, ông bèn sai bà-ở dọn liền cho mình để ông còn kịp giờ đi thương thảo làm ăn. Dù muốn dù không, thím Bảy cũng phải dòm thấy người bạn tâm giao của ông chủ; là một bà miền Tây da bánh mật, tròn trịa, chắc hồi trẻ cũng đẹp gái lắm đây. Thím Bảy chịu ông chủ ở cái chỗ biết tự lượng sức mình, chứ không kiếm mấy con nhỏ đáng tuổi cháu – chắt mà làm tình nhân; ổng gần hàng bảy, bà này đổ chừng hơn năm mươi, quá xứng đôi vừa lứa rồi.
– Ông nghĩ sao về việc nhiều người ở đây chê nghề làm móng là dơ và thúi?
– Vậy làm bác sĩ Phụ Khoa, Sản Khoa, Phẫu Thuật,… có thơm tho và sạch sẽ không? Hay còn dơ gấp vạn lần cái nghề làm móng?
– Không những dơ, thúi mà còn tanh nữa.
– Bên đây người ta trọng những người tay – chân dơ mà lương tâm sạch, chứ không ai đi trọng mấy thằng lường gạt ăn trắng mặc trơn có kẻ hầu – người hạ mà lương tâm thúi hoắc và tàn mạt.
Cũng bởi cái tư duy ngạo mạn, “Tôi giỏi như thế này… thì tôi phải làm nghề như thế kia… mới xứng đáng sức học của tôi…” cho nên bên bển mới lắm kẻ hoang tưởng và thà thất nghiệp chịu chết chớ không chịu đi làm việc tay – chân, mà nếu có chịu đi làm việc tay – chân đi chăng nữa cũng tự hạ thấp cái nghề kiếm cơm cho mình.
Quán nhỏ của mợ Hai có khách nên cuộc nói chuyện giữa hai người lại gián đoạn lưng chừng. Vệ Thu vừa dùng bữa vừa đọc lại hợp đồng dự kiến mà thằng Hai và luật sư của nó đã soạn thảo ra, không biết đối tác có đưa ra những điều kiện vô lý hay gây bất lợi cho tập đoàn của ông không đây.
– Xong rồi. Bữa nay ngày gì mà bán bánh được quá. Ngày mơi phải mua con vịt cúng trả Lễ mới được.
Vệ Thu nghe tới đó xém nữa sặc cháo. Bán buôn lời lóm có bao nhiêu, cúng trả Lễ chắc đứt bà nó cả vốn lẫn lời rồi.
– Thằng Thương nó cũng khoái ăn vịt quay lắm. Lát tui chuyển tiền qua cho bà mua mấy con để ai cũng được no bụng.
– Ừ, nó ghiền ăn bánh hỏi lắm. Để mơi tui mua vịt rồi mua luôn mấy phần bánh hỏi cho nó.
– Mua mười hai con đi… Cho tụi nhân viên ăn chung…
– Mua chi mười hai con cha?
– Cúng bốn phương – tám hướng, lỡ thiếu ông nào ông đó chọt cho bán ế sao?
– Quỷ hà!
– Vậy cúng hai mươi bốn con đi, cho mấy ổng ăn lòi bản họng luôn.
– Chớ hổng phải để mày nhậu với thằng Huy và mấy đứa lục lâm thảo khấu kia hả?
Chú Thương phá lên cười ha hả, rồi cất giọng xin phép má cho mình xuống Đồng Nai ở chơi với mấy đứa chiến hữu.
– Trời đất quỷ thần thiên địa ơi! Nhiêu tuổi mà còn xin phép tui?
– Hổng xin phép, má lại giận lẫy như lần trước thì mệt lỗ tai con dữ lắm.
– Ờ, đi đâu đi đi, đủ lông đủ cánh rồi bỏ tui ở nhà một mình.
– Má đâu có ở một mình đâu mà sợ ma?
– Rồi hai má con xong chưa?
– Xong rồi? Muốn nói gì nói đi.
– Tui hay ghé mấy chỗ làm điện thoại miễn phí cho người dân theo chương trình An Sinh Xã Hội, để chi hôn, để nói chuyện với những người trẻ đang kiếm tiền sống trong lúc chờ công-ty yêu thích gọi phỏng vấn; đa số đều đã tốt nghiệp Đại Học đàng hoàng, một bồ chữ nghĩa, đụng đến vấn đề liên quan tới chuyên ngành là nói ron rót – ron rót như chẻ tre…
Ấy vậy mà mặc dù đi làm công việc trái với chuyên ngành, họ vẫn mặc âu phục và đầu tóc chải láng mướt bảnh tỏn, trên môi luôn nhoẻn miệng cười với “khách hàng” và luôn ân cần, nhẫn nại giải thích tất tần tật thắc mắc của “khách hàng”, không hề có lấy một tiếng nạt nộ hay nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu. Một trong số những nhân viên mà tui ấn tượng nhứt là một cậu Do Thái theo Do Thái Giáo, từ cách đội nón cho đến cách buộc chùm râu và bận vest đều là theo kiểu truyền thống của dân tộc cậu, dòm vô là thấy một bầu trời gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc…
– Gặp mấy đứa bên đây không biết sao há?
– Đứa nghèo thì sẽ giống như bên tui. Đứa lơ lớ thì bằng mặt không bằng lòng. Còn đứa giàu thì đời nào nó chịu làm nghề giống vầy.
Chiếc xe gắn máy phân-khối lớn đã đưa thằng con đi mất hút mà mợ Hai vẫn còn rướn người trông theo. Hai má con cách nhau chưa đầy hai chục tuổi nên đôi lúc bà có cảm tưởng nó giống em trai hơn là con bà, kể cả thằng Thảo cũng vậy. Nhưng thú thiệt, bà thấy thằng Thảo giống con bà hơn là thằng Thương.
oOo
Bữa nay Thừa Tân dẫn đại gia đình và hai đứa cháu gái xuống miền biển Hà Tiên. Nếu như không có chuyện gì bất thường xảy ra, họ sẽ ở chơi một tuần cho thỏa thích. Khu homestay mà anh chủ quán chọn là do tư nhân mở ra; do phòng ốc rộng rãi và lắp đặt nhiều trang – thiết bị tân tiến nên giá thuê không hề rẻ, nhưng bù lại an ninh rất nghiêm ngặt.
Vì cái vụ ở tù oan của Thừa Tân mà anh không ngồi chung với đại gia đình. Với lại con nhỏ Yên Hồng đang mang bầu, ngồi xe đò chịu sao thấu? Thành ra anh lái xe riêng là chiếc Porsche mà chở hai đứa kia đi.
Quỳnh Như lên băng trước ngồi cùng với Thừa Tân, do Yên Hồng uống thuốc an thai nên đã ngủ bất biết rồi. Nó được chú già mua cho một hộp gỏi khô bò – đu đủ xanh và một ly hồng trà Tích Lan cỡ lớn bỏ nhiều món ăn kèm.
– Chủ nghĩa cá nhân lên ngôi nên âm nhạc cũng bị băng hoại theo. Người nào sáng tác nhạc càng chửi thề, nói về mình một cách cao ngạo hay xỏ xiên kẻ thù của họ càng nhiều thì càng được hâm mộ và khen ngợi “sống thật” với cá tính. Thành ra, một kẻ đạo đức giả như tôi nuốt không trôi, nên đã phải quay về thời cố lũy cố lai mà tìm nhạc xưa nghe.
Nếu như hai cô siêng coi bình luận sẽ thấy nhiều người ngoại quốc than thở vì âm nhạc thời nay xuống sắc hơn thời trước rất nhiều. Số ca sĩ thời nay có thể hát trực tiếp hay như trong đĩa được bao nhiêu người?
Các bản nhạc Vàng – nhạc Tiền Chiến được thâu âm trong thời kỳ kỹ thuật nhị-phân (0 và 1) nên giọng trong đĩa sao thì ở ngoài giống khoảng gần chín chục trăm phần trăm.
Quỳnh Như cong môi:
– Nhưng giờ người ta ham vui hơn hà chú. Nhạc nào giựt – giựt mà nhảy được á.
– Và chẳng có mấy người biết ghi tên tác giả sáng tạo ra điệu nhảy đó.
Quỳnh Như lại hỏi:
– Thời xưa có nhạc sung hông chú?
– Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Khánh Băng, Tùng Giang, Trường Kỳ, Kỳ Phát, Xuân Vinh, Nam Lộc, Quốc Dũng, Jo Marcel, Trường Hải, Trọng Nghĩa, Nguyễn Duy Biên, Vũ Xuân Hùng, Huỳnh Anh, Văn Phụng, Y Vân, Y Vũ, Minh Phúc, Thanh Tùng, Ngọc Chánh,… Muốn nghe ai, tôi chiều?
– Nhạc sung mà hổng phải “Kích Động nhạc” nghen?
– “Anh đâu Em đó” do Phương Tâm trình bày, một sáng tác của nhạc sĩ Y Vân.
– Có bài nào sung hơn nữa không chú?
– “Tâm sự Thủy Thủ” của nhạc sĩ Y Vũ, do tam ca Phượng Bằng – Thanh Vũ – Hồng Phúc trình bày.
– Bài nào cũng kêu gọi yêu Quê Hương hết há chú?
– Phải. Non nửa kho tàng nhạc Vàng đều lồng ghép rất nhiều chữ “Tình” vào trong bài hát.
– Nói vậy là chú đã nghe rất nhiều bài hát hiện hành rồi?
– Và không có lấy một bài lọt lỗ tai.
– Chú ráng mở lòng thêm xíu nữa đi.
– Thiếu điều phanh bụng ra luôn rồi đó cô. Tôi dị ứng kiểu hát “bóp tiếng”, “làm méo giọng” và đệm nhạc vô nốt cao một cách không cần thiết.
– Như kiểu Britney Spears thì chú chịu được?
– Ừ. Song cũng chỉ vài bài thôi.
– Nhưng nhiều người phàn nàn thời nào rồi mà còn bắt ca sĩ hát theo lối trước năm 75?
– Đâu có ai bắt phải ca y hệt lối hát của thế hệ ca sĩ trước năm 75, mà là mong thế hệ ca sĩ bây giờ hát cho ra hát và rap cho ra rap kìa. Và một điều nữa là nhạc sĩ soạn sao thì trình bày y như vậy, đừng có gân cổ rống hay rú lên nghe bắt mệt; hoặc cà-luyến cà-láy như bị kề dao vô cổ nên kêu cứu không được.
Quỳnh Như bật cười um sùm.
– Bây giờ có thêm cái nạn tôn sùng thần tượng âm nhạc và phim truyện, hễ ai nói động đến là soạn nguyên bài diễn văn đáp trả, còn chuyện biển đảo hay tình hình xã hội hiện giờ ra sao thì một dấu chấm cũng không thấy mặt.
Những trang Cbiz đầy những người như vậy, luôn biện hộ giùm cho giới giải trí bên bển và công kích những ai mà họ cho là phản động. Mà cũng ngộ lắm, phát hiện diễn viên xứ Tàu ủng hộ đường lưỡi bò thì la làng lên được vài lần, chừng cái đám đó ra phim mới thì xúm lại viết bài giới thiệu và còn bao biện rằng “Người ta yêu nước người ta nên mới làm vậy chớ bộ”.
– Con ghét luôn cái tánh gặp khứa nào hay mẹ nào mà ưa nhìn một chút là gào rú đòi nhận làm chồng và làm vợ. Đói khát lắm hay sao mà quằn quại dữ vậy không biết.
– Chắc trong trường cô không có nhiều bạn phải hôn?
– Dạ phải.
Một cú thắng gấp đã làm Yên Hồng giật mình tỉnh lại. Nó ôm đầu kêu đau một tiếng rồi dật-dà dật-dựa mà cúi mặt bụm miệng nôn trớ.
Người qua đường ẩu tả kia đã dông mất. Nhìn theo bóng lưng của người đó thì đoán anh ta sợ bị trễ xe buýt nên mới liều mạng như vậy.
Uống xong viên thuốc ngăn nôn – ói, Yên Hồng hỏi Thừa Tân:
– Có ca sĩ nào thời nay tài ba mà chú không thích giọng hát không?
– Có chớ. Nhiều lắm là đằng khác. Nhưng đứng đầu là SIA, cứ hễ nghe nhạc của cô này là tôi bị nhức đầu và khó chịu.
Quỳnh Như quay người ra sau để đưa cho Yên Hồng hộp cơm cháy chà-bông trộn mực xé. Cô chị họ cảm ơn nó một tiếng thật khẽ, rồi ráng bốc vài miếng nhai cho có sức uống thuốc.
– Cho nên tôi đâu có quạu khi người ta chê một ca sĩ nào đó.
Quỳnh Như cong môi:
– Chú chỉ ghét cái tánh không ưa người ta nên chê luôn giọng hát chớ gì.
– Ờ, chuyện nào ra chuyện đó.
– Song cũng có ngoại lệ phải hôn, chú?
– Đương nhiên rồi. Có người vừa ca dở mà vừa xấu tánh lại phản trắc nữa, gặp thời nên phất lên.
Chiếc xe đò chở đại gia đình Thừa Tân đã tắp vô cây xăng mà châm thêm nhiên liệu. Chú cũng ghé vào đó luôn, không chỉ để đổ xăng mà còn để đi vệ sinh nữa.
Quỳnh Như và Thừa Tân dìu Yên Hồng đi lại khu nhà vệ sinh. Ở đây còn xài xí-bệt chứ không xài bồn cầu nên Yên Hồng ngồi tiểu không được, vậy là Thừa Tân phải dắt nó lại quán cà-phê mà mua mấy chai nước suối để có cớ mượn nhà vệ sinh, cũng may chủ nhà thương tình nên dẫn ra nhà sau mà cho xài nhà vệ sinh của gia đình mình.
– Vợ nhiêu tuổi mà mặt mày trẻ măng vậy chú? – Con trai chủ quá hỏi Thừa Tân. Người này cũng đồng tuổi với anh thì phải?
– Dạ, hai mươi sáu. Ai cũng tưởng tôi với ẻm là cha – con hay anh – em hết.
Anh ta cất giọng chòng ghẹo:
– Cưới vợ mặt mày trẻ vậy sướng rồi.
Quỳnh Như ngoảnh mặt sang chỗ khác mà nguýt dài một cái.
Trở về xe, Thừa Tân lại tiếp tục câu chuyện dang dở ban nãy:
– Bữa trước tôi đọc được một bài phân tích về lối sáng tác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hay ơi là ơi. Trước giờ toàn đọc mấy bài xen xọt quan điểm chính trị và đời tư cá nhân của ổng không hà, nay mới được gặp một bài nhận xét đúng chủ đề đã nêu.
Yên Hồng hỏi:
– Khen hay chê, chú?
– Chê, và chê đúng mới hay. Đọc đã quá trời đã.
Quỳnh Như hỏi:
– “Con đường hắc hồng” là sao chú?
– Thay vì nói giống bên Tàu, tại sao không dùng từ “Nổi tiếng theo cách gây thị phi và tai tiếng”.
– Còn “Đỉnh lưu”?
– Thì nói là “Người đang thịnh thời” hoặc “Thạnh thời”.
Khu homestay rất vắng khách. Nhưng chủ của nó không có ý định tung ra những gói ưu đãi để thu hút khách hàng, vì đôi vợ chồng ấy đã tởn ông – tởn cha với những người khách ham rẻ mà ghé ở rồi. Nói khí không phải, thà cho người có tiền mướn vẫn bảo đảm hơn là người cắc ca cắc củm dành dụm đi chơi; ai nghe xong đăng đàn mạt sát thì họ đành chịu trận chứ kiên quyết không thay đổi quan điểm.
Chỗ này được cái là chỉ cách biển chừng một cây số, nếu muốn có thể đi bộ hoặc chạy xe đạp ra cũng được. Do đó sau khi nhận phòng và sắp xếp đồ đạc, Thừa Tân dẫn hai đứa cháu người dưng ra bờ cát ngắm biển.
– Chú thích những bài hát nói về hòa bình do các nhạc sĩ trước năm 75 sáng tác lắm, con. Vì đó là một bầu không khí hòa bình thực sự, không có những đòn thù tiểu nhân hay thậm xưng bất kỳ ai cả. Con sẽ thấy Quê Hương ta đẹp biết chừng nào với sóng lúa vàng thơm ngát, với lũy tre xanh đu đưa dưới vòm trời thẳm sắc thiên thanh, với chiếc xuồng ba lá hay con đò bồng bềnh theo sông nước, với những người lính quay trở về sống cuộc đời yên vui bên gia đình của họ,…
Yên Hồng thì hiểu, nhưng với một đứa hãy còn ôm sách đến trường như Quỳnh Như thì không.
Thừa Tân hỏi Yên Hồng:
– Có biết tại sao ca – nhạc sĩ Duy Khánh phải sáng tác ra bài “Sao đành bỏ Quê Hương” không?
Yên Hồng nhún vai, tỏ ý chịu thua.
– Là để ngăn người ta đi vượt biển đó. Ông mà không viết là không yên với đám đó. Để rồi sau một thời gian, ông cũng lên đường vượt biển luôn.
Yên Hồng hỏi:
– Chú có nhận xét nào về thanh nhạc mà khác người hay là khác với số đông?
– Sĩ Phú và Duy Trác là những giọng ca hiếm hoi làm cho giai điệu của nhạc Trịnh Công Sơn trở nên hay một cách kỳ lạ. Thí dụ như “Một cõi đi về” do Duy Trác ca nghe hay hơn Khánh Ly nhiều.
Đến nơi cho mướn tấm bạt, dù che, ván lướt sóng, ghế ngồi và trái banh cao su, Thừa Tân bỏ tiền ra thuê ghế và dù cho hai đứa cháu, còn anh thì trải bạt mà ngồi thôi. Do không có đứa nào phụ nổi nên anh lại phải mướn xe cút-kít đặng kéo về cho đỡ cực. Quỳnh Như chọn ghế và dù màu tím pha hồng yểu điệu, còn Yên Hồng thì ưng màu vàng chanh rực rỡ.
– Người có thiên bẩm khác với người ra công trui rèn. Là một ca sĩ, không chỉ hát hay không thôi, mà còn phải làm cho người nghe nhận ra được giọng mình trong một rừng thanh sắc. Bây giờ không nghẹt mũi, sắp tắt thở thì lại là bóp tiếng – méo giọng hoặc rú rống để khoe giọng cao.
Yên Hồng than khát nên Thừa Tân lại quầy bán dừa mua cho mỗi đứa một trái mà uống. Nghe bà thím nói anh mới biết bà lấy dừa ở Kiến Hòa lên bán, bán ở dưới không có giá nên bà đem lên đây mở quầy kiếm sống; cùng một nước mà ở tại gốc thì giá rẻ mạt, còn qua tỉnh khác lại thành trân tu mỹ vị. Anh tươi cười giới thiệu mình là đồng hương với bả, vậy là bả bán cho anh với cái giá ở dưới; nhưng anh không chịu, vì biết rằng thời buổi này kiếm đồng tiền chảy máu mắt.
Sau một lúc nghía, Thừa Tân bèn chọn rặng trâm bầu khá lớn mà lại ngồi với hai đứa cháu. May thay, những người lao-công đã hốt rác và quét dọn sạch sẽ nên chỗ này ngồi rất thoải mái và không bị bốc mùi thum thủm của những thứ uế tạp.
Vừa trải tấm bạt màu xanh hải-quân lên thảm cát, Thừa Tân vừa tâm tình:
– Cứ hễ ngồi trước biển là chú lại nhớ tới hàng loạt bài hát của các nhạc sĩ trước năm 75, như: “Biển tình” của Lam Phương, “Biển sầu” “Tình yêu thủy thủ” và “Hoàng hôn trên biển” của Y Vân, “Biển tím” – Một của Hoàng Phương và một của Nguyễn Vũ, “Một loài chim biển” và “Sao rơi trên biển” của Nguyễn Vũ, “Biển vắng” của Tùng Giang, “Biển nhớ” của Trịnh Công Sơn, “Biển mặn” và “Biển mù sương” của Trần Thiện Thanh, “Biển tuyết” và “Hoa biển” của Anh Thy, “Biển mộng” của Quốc Dũng, “Biển động” của Đinh Diễm Vi, “Biển dâu” của nhóm Lê – Minh Bằng – trong bài này ba ông ký tên là “Lê Dinh – Phương Trà”, “Tình ca người đi Biển” của Trường Hải, “Thủy thủ và Biển cả” của Y Vũ, “Rừng thương – Biển nhớ” của Châu Kỳ, “Người em Hải đảo” của Mặc Thế Nhân, “Hai ngày ở Biển” của Huy Cường và Linh Vũ – Đây cũng là một bút hiệu của nhóm Lê Minh Bằng,…
Quỳnh Như hỏi:
– Có bài nào đặc biệt không chú?
– Bài “Sầu biển” được nhạc sĩ Trường Sa viết nên nhằm tưởng niệm cuộc hải chiến Hoàng Sa năm 74 với giặc Tàu và tri ân các anh hùng của xứ Đàng Trong đã vị Quốc vong thân nơi Nam Hải. Bây giờ ca khúc ấy đã thất truyền rồi, chắc có lẽ là do năm 75…
Nói đến đây, Thừa Tân thở dài thườn thượt, rồi mở hộp thuốc trợ tim mà lấy ra một viên để uống.
Yên Hồng hỏi:
– Chú có nhớ ai ca bản đó không?
– Nếu như tôi nhớ không lầm thì người đó là ca sĩ trước năm 75 Mộng Thi.
Quỳnh Như chu miệng hỏi:
– Tại sao chỉ với chủ đề “Biển” mà đã có quá trời nhạc phẩm vậy chú?
– Cho nên tôi mới nói nhạc sĩ thời nay thiếu tính đa dạng chủ đề, cũng như đa số không biết tạo ngữ cảnh cho bài hát. Nếu mà nói về “Mưa” và “Bốn mùa”, thì không biết liệt kê sao cho đủ những bài hát trước năm 75 mang những chủ đề này.
Thấy có mấy cô bạn trạc tuổi mình đang thiếu tay chơi đánh banh chuyện, Quỳnh Như dạn dĩ bước lại ngỏ ý chơi chung. Chắc có lẽ cùng trang lứa với nhau nên dù chưa quen biết, đôi bên đã kết thân thật mau. Một màn so-găng sôi động diễn ra trên bãi biển xinh đẹp nhưng thiếu vắng bóng chim trời.
Yên Hồng nhìn những đứa con gái chơi vui vẻ với nhau mà đôi mắt đỏ ngầu. Không biết là nó đang ganh ghét hay đang thống hối cho quãng đời quá khứ của mình đây?
– Cảm thấy trong người sao?
Yên Hồng hồi thần. Nó gượng cười đáp rằng, “Dạ, con khỏe.” Rồi nó kiếm chuyện khác mà hỏi ông chú dễ thương:
– Chú kể cho con nghe hoàn cảnh sáng tác bài hát nào đó được không?
Sau vài hớp nước dừa, Thừa Tân chậm rãi kể:
– Bài “Rừng lá thấp” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết tặng cho người bạn tử trận, tức Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến – Vũ Mạnh Hùng. Trong tờ nhạc gốc ghi như vầy:
“Hùng,
Xưa, 1 lần hành quân về ghé thăm tao, mày đã tỏ ý khó chịu về những nàng ca sĩ cứ bô bô hát những bài ca đòi… “yêu”… đòi… “chung tình” với “Lính”.
Tao đã không đáp, bởi… thật khó cho tao khi phải nói về những người bạn… đồng nghiệp.
Trong tình bằng hữu mười mấy năm còn thật đậm, tao ghi lại ở đây 1 ý kiến của mày, tiếc là mày không thèm nghe tao hát nữa…
HÙNG ơi!
Thanh – 1968/11.”
– Lời văn chân thành quá chú há!
– Trong một bản thâu âm trước năm 75 mà tôi tình cờ nghe được, tôi đã thấy bác Thanh ráng dằn xuống tiếng khóc nghẹn trong khi biểu diễn bài “Rừng lá thấp”, ở câu “Hay hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua”, cho nên bác thì không khóc mà tôi lại khóc ngon ơ.
– “Người vừa nằm xuống chiều qua” là bạn của nhạc sĩ nên ổng mới xúc động thiệt tình.
– Với lính, “Xưng tao – Gọi mày…” là chuyện dĩ nhiên, họ không phân biệt cấp bậc hay xuất xứ, ai hợp tánh thì họ chơi thân, chỉ thế thôi.
– Khách sáo màu mè thường là phường con buôn chính trị.
Quỳnh Như bị trật chân nên nghỉ chơi mà trở về chỗ ngồi xức rượu thuốc. Hũ này là món quà mà huynh trưởng của võ đường cô đang theo học tặng cho tuần trước, hữu hiệu dữ lắm.
– Ai nói cho cô câu này?
– Ba con. Ổng ghét Tổng thống Khánh lắm, ổng hay nói ông này chỉ được cái khóc bù lu bù khoa và diễn tuồng nhơn nghĩa chớ hổng làm được con mẹ gì. Cứ hễ sinh viên biểu tình đòi ông này phải làm minh bạch đường dây mổ cướp nội tạng là ổng lại bị đày ra chiến tuyến…
– Mà nè…
Nhận thấy sắc mặt xám xịt của Yên Hồng, Thừa Tân ngừng nói với Quỳnh Như mà day qua hỏi han nó:
– Bị động thai hả?
Yên Hồng gắng gượng đáp:
– Dạ, hơi đau bụng thôi chú.
– Muốn về khách sạn không?
– Dạ thôi.
– Chừng nào đau quá báo nghen? Ở tuổi này mà sẩy thai về sau khó có bầu lại lắm.
Quỳnh Như lẹ tay mở cái xắc để lấy hũ thuốc an thai và một chai nước suối cỡ nhỏ, rồi đưa hai thứ đó cho cô chị họ lớn hơn mình một tuổi.
– Cảm ơn Như nghen.
Thừa Tân muốn thoát khỏi sự luống cuống nên kiếm chuyện đánh trống lảng:
– Hai đứa muốn ăn kem trái dừa không?
Quỳnh Như dè dặt hỏi:
– Ăn vậy chỉ có bị lạnh bụng hôn chú?
Yên Hồng vỗ đầu nhỏ em mà rằng:
– Có sao đâu mày.
Vậy là Thừa Tân lật đật chạy đi mua kem cho hai nhỏ cháu người dưng.
Đợi cho người hảo tâm đi khuất dạng, Yên Hồng mới đặt tay lên vai nhỏ em và thủ thỉ:
– Lỡ mai chị đi tù, em làm ơn làm phước coi nó như con ruột giùm chị.
Quỳnh Như bàng hoàng hỏi:
– Em tưởng chị thoát rồi chớ?
Yên Hồng rũ mắt. Nụ cười trên môi nó héo hon như lá Thu rời cành:
– Chị đã phạm tội tày đình. Sao không bị truy tố được? Chỉ là sớm hay là muộn mà thôi.
Thấy cách nói chuyện nhát gừng của chị họ, Quỳnh Như liền hiểu ẩn tình ấy không nên tìm hiểu, thành ra nó bắt qua những chuyện vô thưởng vô phạt khác.
Sóng biển vẫn vỗ về bờ cát đượm màu nắng. Những loài chim biển không dạn dĩ với con người nữa thận trọng bay trên bầu trời không còn là bờ cõi của chúng; những vệt cánh xam xám dường như bị màu sắc của đám mây báo mưa nhận chìm mất. Vầng dương tỏ rạng sau một áng mây vảy rồng, nhưng chút ánh sáng ấy không sao thắng được sự đông đảo của quá chừng mây mù. Những cơn gió biển mang theo hơi lạnh của mây mưa xông đến hàng phi lao cao nghệu và ốm nhách, làm những cái cây đó oằn mình mà nghiêng theo chiều gió dữ.
– Trời đ* má, tao bưng cơm cho mày còn hơn “Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ” mà mày còn bày đặt hổng ăn nữa hả? – Khán Bình chưa kịp chửi nữa đã bị Tống Ngạn bụm miệng lại.
Ernest Nguyễn hùa thêm:
– Nhờ có mày mà cái phim đó mới có người coi đó. Có lần tao đọc được bình luận khen mày là “Lưu Đức Hoa – Việt Nam” đó.
Đức Hoàng nhếch miệng cười:
– Ừ, “Lưu Đứt Dây”, bà con hàng xóm xa mút chỉ Cà Tha của ổng.
Đức Hoàng dầu đã nổi tiếng nhưng hắn vẫn là thằng nhà quê năm nào, thành thử những người đồng nghiệp mới của hắn rất quý trọng và mến thương hắn, hễ có kịch bản nào mới đều hú hắn một tiếng.
– Ê. – Ernest Nguyễn khều Đức Hoàng. Thằng bạn của y đang nhai một họng cơm có thịt và rau.
– Gì nữa?
– Con nhỏ đó mặt mày non choẹt mà cái bụng chề ề rồi.
– Có lẽ là nó bị hại thôi mày. Mới bi lớn bị vậy tội nghiệp lắm, mình đừng có xầm xì nó nữa.
Khán Bình hỏi Đức Hoàng:
– Mày nghĩ sao về chuyện phê bình phim?
– Hễ chê phim nào là bị phán “Mày theo phe của thằng/con kia chứ gì?”, suốt đời chỉ biết đi thần tượng và bảo vệ người dưng. Tới chừng đứa đó trở mặt sống tệ hại lại gào lên khóc lóc trách cứ đủ điều.
Tối nay mấy thằng bạn của Đức Hoàng sẽ tháp tùng hắn trong chương trình giải trí đầy tai tiếng và “bà tám” đang nổi đình nổi đám hiện giờ. Mặc dầu không muốn tham gia nhưng vì để “ủng” cho hai đứa diễn viên bất tài kia nên hắn buộc lòng phải góp mặc; ngoài ra còn bởi cát-xê đủ để hắn lo cho bầy em đóng học phí và sắm sửa đồ-dùng học-sinh trong mấy năm liền. Mấy đứa chiến hữu cũng được một mớ rủng rỉnh, dư sức sắm thêm chiếc xe gắn máy nữa chớ chẳng ngoa.
– Cậu Hoàng, tới giờ quay phim rồi.
– Sao mày cười vậy răng lòi sĩ?
Ernest lắc đầu:
– Ổng mà kêu lộn thành “Cậu Vàng” chắc vui lắm.
Ba má của Đặng Thừa Tân đã đói meo râu nên lại biểu thằng con Út dắt mình đi ăn nhà hàng. Kể từ sau ngày tiếp tay đẩu con Út vô trại giáo dưỡng một cách oan uổng, đôi vợ chồng già luôn hối hận; để bù đắp những năm tháng bị tra tấn và bức cung đến điên loạn của thằng con, hễ nó muốn gì họ cũng chiều theo, chiếc xe “Porsche” này là một trong số đó.
Dù rất muốn ăn cá biển nhưng vì mùi tanh của nó nên Yên Hồng chỉ biết nuốt nước miếng thèm thuồng chứ không dám rớ đũa vô.
– Chị kia đẹp quá chú. Chú với chỉ mà thành đôi chắc đẻ con ra cưng lắm.
Thừa Tân vỗ đầu nhỏ cháu tóc demi – garcon, rồi hối nó mau ăn cơm để còn kịp lên thuyền chơi nữa.
Đúng boong bốn giờ chiều, chiếc du thuyền đã cập hải cảng Hà Tiên. Những ai đã mua vé hối hả xách hành-lý lên tàu; đôi nam – nữ là nhân viên soát vé dù phải làm việc cật lực nhưng không khi nào ngớt nụ cười trên môi và lời chào nồng thắm nhất
– Phòng của tụi mình nằm ở dãy hả mậy? – Ernest Nguyễn hào hứng hỏi Đức Hoàng.
– Ờ, giường tầng, hai cái. Tao xí nằm trên rồi đó.
Khán Bình cười:
– Sao mày hổng ở phòng đặc biệt?
– Ở với tụi bây vui hơn. Ở với cái đám xạo quần kia tao chịu hổng thấu.
Trong khi đó, Longiuns Kiến đang hát theo Hùng Cường trong bài “3000 dặm” của nhạc sĩ Y Vân. Hơi đứt ngang hông nên ông đành ngừng ca mà quay qua kể:
– Cứ hễ ra ngoài khơi là tôi lại nhớ tới bài “Cọp Biển” của ông Vân.
Nói xong, Longiuns Kiến phấn khích đi ra boong tàu. Cô Ái Liên và xấp nhỏ mau chóng nối gót theo.
Khắc Xương vừa ôm ngực thở hổn hển vừa ráng sức trách:
– Ông già mà ổng còn nhí nhảnh hơn con cá cảnh. Thiệt tình…
– Tại mày mập thôi con. Roi roi như tao là đi đâu cũng khỏe hết.
Sáu Quới bẹo gan chàng mập:
– Cưới vợ về nó quần riết tự khắc ốm xuống hà.
Chàng cư sĩ Cao Đài cũng không vừa:
– Hoặc là hai đứa ú đều.
Kiều Xuân không đứng cùng mọi người mà ra khu vực gần mũi thuyền đứng ngắm cảnh một mình. Hoàng hôn đã cập bến Hà Tiên, trên thinh không là sắc ráng chiều và trên mặt biển cũng vậy, đâu đâu cũng thấy một màu cam huy hoàng đẹp mê hồn. Vài cánh nhạn biển chao dao theo những cơn gió lãng du. Những hòn đá muôn hình vạn trạng càng thêm trầm hùng và huyền diệu trong ánh chiều rỡ ràng như vậy. Và kìa, những chiếc tàu khổng lồ đi giữa biển cả trông như thể những phiến lá rơi trên mặt hồ.
– Xuân.
– Anh Mỹ.
Stephen Đoàn nói mà ánh mắt ngó lung về phía đường chân trời ảo ảnh:
– Đứng đây nguy hiểm lắm, lỡ trợt chân té chết sao?
– Dạ.
Thấy sắc mặt tái xanh của Kiều Xuân, Stephen Đoàn cởi áo gió rồi khoác lên người nàng; xong xuôi hết thảy, anh đi một hơi về chỗ của Thầy và các anh em đồng Đạo.
– Tụi nó làm tao cảm động quá, tưởng đâu đang hoạt cảnh cho bài hát “Beauty and the Beast” do song ca Celine Dion – Peabo Ryson trình bày không nhớ.
Louis Quế cười khổ:
– Thầy cảm động, chớ còn bên này cảm sốt luôn. Đứng gần chả mà tưởng đâu Hỏa Diệm Sơn.
Phòng ngủ của nguyên đoàn đều ở lầu Hai, là hạng trung và giường đôi. Khắc Xương và bà Ái Liên ở riêng một phòng. Những người còn lại cứ hai người thì ở chung một phòng.
Vừa bước lên cầu thang để về phòng nghỉ ngơi, Sáu Quới vừa nói:
– Có người nói làm cầu thang xoắn ốc là phản Đạo vì nó giống hình con mãng xà.
Longiuns Kiến phá lên cười. Cái bịnh “ngộ Kinh-Thánh” sao mà nhiều người hay mắc phải quá.
Dù rằng được đi du thuyền xa-hoa, nhưng nhóm Linh mục không quên những giờ Kinh. Đi chơi được đâu vài tiếng, nguyên đoàn trở về phòng của Longiuns Kiến để tham giờ Kinh Tối. Do phòng khá nhỏ nên bàn thờ phải đặt trên giường ngủ, Longiuns Kiến đứng ở mé tả cái giường và xấp nhỏ đứng ở phía đối diện ông. Kết thúc giờ kinh nguyện, để bản thân có thể ngủ ngon, Longiuns Kiến tiễn chân từng đôi về phòng, chừng thấy tụi nó đóng cửa phòng rồi ông mới yên tâm đi về ngủ.
Lần đầu tiên ngủ lại trên tàu nên con nhỏ Quỳnh Như háo hức dữ lắm, tới độ không ngủ được mà đi lang thang khắp nơi suốt mấy tiếng đồng hồ rồi mới chịu ngừng chân ở boong tàu để ngắm cảnh biển đêm.
– Cô bé ơi!
– Sao chú 35?
– Chưa gì mà đã nói người ta 35.
– Hay là 21?
– Nhà con làm thầu đề hả?
– Dạ hông, ba con làm cảnh sát bắt thầu đề nên rành lắm.
Người đàn ông vô duyên ấy là một trong những khách mời quan trọng của chương trình giải trí “Không sợ chết”, nói huỵch toẹt ra là chẳng có tài cán gì sất nhưng vì là con trai của nhà tài trợ nên được mời tham gia, bữa nay anh ta bị bắt phải đi tán gái đặng “mua vui được vài trống canh” cho khán giả, nói xàm nói xí chỉ để gây cười.
– Con có muốn thử quen với chú không?
– Dạ, con hổng muốn trở thành nữ chánh trong “L’amant” đâu.
– Ha! Bắt quả tang con nít mà coi phim người lớn nghen?
– Con đâu có coi. Bạn con coi mà.
– Bạn con là ai vậy?
– Một ông già rất dễ thương. Phải chi ổng với con đừng cách nhau xa quá thì hay biết mấy.
– Nhiêu lận?
– Hai mươi mấy tuổi.
– Trời đất ơi! Này ném về cha còn được chớ đừng nói chi chú.
– Ủa? Chú biết vậy mà sao chú còn ghẹo con? Sao không kiếm mấy cô trạc trạc tuổi chú đó cho xứng đôi vừa lứa.
– Cho chú xin chữ ký.
– Chi nữa?
– Để mai mốt con làm công tố viên hay luật sư nổi tiếng chú có bằng chứng đặng “bắt quàng làm họ” được.
– Hổng hiểu sao con học dốt Văn dữ lắm mà cãi bướng thì không thua kém ai.
– Thôi, chú thua rồi.
– Là sao chú?
Đến lúc này xướng ngôn viên của chương trình mới bước ra và đại diện cho êkip xin lỗi cô du khách nhỏ vì đã quấy rầy nãy giờ. Để cảm ơn vì cô nữ sinh đã bỏ thời gian quý báu mà tham gia chương trình, một cách bất đắc dĩ, xướng ngôn viên trao cho cô nữ sinh một cành hồng làm bằng chocolate nhiều mùi vị. Sực nhớ tới người chị họ, Quỳnh Như mạnh dạn xin thêm một cây nữa.
– Cho “cha già mến yêu” phải hôn?
– Dạ, cho ổng đó.
– Sao tôi nghi lát nữa nó vô bụng cô hết quá.
Quỳnh Như chỉ chúm chím cười chứ không nói chi hết.
– Cho luôn mười cây đi. Dẫu sao cũng đâu còn ai ngoài đây để thử phản ứng của họ đâu.
Nhận quà xong, Quỳnh Như xách hộp quà về phòng mà chia cho chị họ và ông chú; không quên để lại một lời cảm ơn và ngợi khen chương trình chút xíu. Nhớ lại thái độ ban nãy của con nhỏ đối với mình, con trai nhà tài trợ chỉ biết tủm tỉm cười.
– Phải chi mấy con mẹ trong đây cũng dễ thương được một phần con nhỏ này thì tao đỡ quá.
Xướng ngôn viên là cũng là con của một nhà tài trợ nên không ai dám đụng đến anh ta, thành ra anh ta chẳng kiêng dè ai hết.
– Mấy bả mà dễ thương như vầy thì làm sao sống nổi với nghề hả mày? Mày còn nhớ vụ kia không?
– Nhớ.
– Như
– Con nè chú! Hú!
– Đi đâu mất tiêu vậy? Lỡ bị bắt cóc thì tôi làm sao ăn nói với ba-má cô đây?
– Rồi, biết rồi mà. Con còn nguyên hiện nè chú.
– Sòng bài mở ra là để họ thắng mà, đâu phải là hiệp hội “Xóa đói – Giảm nghèo” đâu mà cho mình trúng đậm?
– Vậy kéo máy được bao nhiêu?
– Đủ một chầu buffet cho nguyên nhà mà thôi.
– Vậy cũng được rồi. Con sợ chú phải cầm luôn bộ đồ với đôi dép chớ.
– Tôi cũng tính rồi á, mà sợ người ta ói thôi.
Rồi con nhỏ tuổi trăng rằm khoe rằng nó được lên truyền hình. Thừa Tân cũng từng được lên truyền hình nhưng là tin tức bắt giữ một thằng nhỏ trộm cắp mấy cây vàng của bà con trong họ.
Yên Hồng nói nó đói bụng nên Thừa Tân dẫn Quỳnh Như theo luôn.
Nhà hàng về đêm cũng khá đông khách; chủ yếu là những đôi tình nhân, các nhóm bạn ngoại quốc hay là gia đình có con nhỏ dỗ nó ngủ không được nên dẫn ra đây ngồi chơi. Hai cô nữ sinh chọn cái bàn cạnh cửa sổ, có thể trông ra boong tàu và ngắm được trời đêm; Thừa Tân bèn ngồi đối diện với khung cửa sổ, chứ không muốn ngồi kế bên đứa nào hết.
– Tháng sau có thể con phải mổ bắt con. Cổ tử cung của con không đủ mạnh để giữ lại đứa trẻ tới đủ ngày.
– Định đặt tên gì?
– Chú đặt được hôn?
– … Cũng được. Coi như tôi có duyên làm cha đỡ đầu của nó.
Quỳnh Như vừa giở cuốn thực đơn ra coi vừa lén đưa mắt ngó chú và chị. Nó tự nhiên đâm ra ghét việc trưởng thành và thậm chí là chuyện kết hôn lẫn sanh con – đẻ cái. Cứ như bây giờ vẫn vui và nhẹ đầu hơn.
Thừa Tân giới thiệu:
– Ăn satay hén?
– Satay là gì vậy chú?
Yên Hồng hướt mà trả lời:
– “Satay” là xâu thịt nướng.
– À, trong phim “Crazy Rick Asians” có nhắc tới món này.
Vì đang mang thai nên Yên Hồng chỉ được phép ăn đúng hai xâu thịt nướng và bị bắt phải hạn chế những món dầu – mỡ khác. Hai tháng nữa là nó hết nợ trần rồi, sữa thì nó cho bú bình chứ nó cũng không có sữa đâu mà cho con trai nó uống.
Quỳnh Như gọi một cái lẩu “Hello Kitty”, tức là nước cốt được cô đặc lại thành hình dạng con mèo xứ Phù Tang, khi ăn sẽ bỏ vô nồi nước sôi và đợi một xíu cho nó tan ra thành nước lèo là xong. Theo sự giới thiệu của anh bồi đẹp trai, con nhỏ bèn chọn nước cốt vị Tomyum chua cay.
– Cái chị kia đẹp quá chú há? Con gặp chị này có một lần mà sao nhớ hoài.
Thừa Tân gật đầu đồng tình.
Yên Hồng vừa lấy thuốc dưỡng thai ra khỏi vỉ bạc, vừa hỏi cha đỡ đầu của đứa con xấu số của mình:
– Chú có biết bài nào về những người có đôi mắt buồn giống cái chị kia không?
– Có.
Rồi Thừa Tân nhắm nghiền mắt lại như thể đang lục lại trí nhớ. Ước độ năm phút sau, anh mới trả lời câu hỏi của con nhỏ Yên Hồng:
– “Đôi mắt huyền” của Thông Đạt, tức nhạc sĩ Văn Giảng, bài này có Sĩ Phú ca rất hay.
Quỳnh Như đan tay vào nhau mà làm điệu bộ “Cung hỷ”:
– Không hổ là ông chủ quán cà-phê “Sóng Nhạc”.
Nhân viên đã dọn cái lẩu lên. Thừa Tân còn đặt cho Quỳnh Như một mâm gà chiên bột ăn kèm với phô-mai dẻo.
– Ê…
– Gì nữa đây? Sợ mập không dám ăn hả? Cảm ơn nghen.
– Có đâu, chú. Anh Đức Hoàng kìa…
Thừa Tân biết nó mắc cỡ nên nắm tay dẫn nó lại xin chụp hình và lấy chữ ký. Yên Hồng nhìn hai chú cháu chỉ biết lắc đầu cười tủm tỉm.
Trở về bàn đã thấy Yên Hồng đang ăn cái đùi gà chiên quết phô-mai ngon lành. Biết nó rất thèm nên Thừa Tân không nỡ la nó, chỉ biết lắc đầu cười khổ.
– Chú kỳ quá…
Thừa Tân vừa gắp một đũa lê trộn củ cải trắng vừa hỏi:
– Mà vui không?
Quỳnh Như gật đầu trong lúc cầm cái cánh gà ngậy dầu – mỡ:
– Ảnh diễn hay lắm đó chú. Ảnh diễn riết mà người ta chửi nhân vật ảnh đóng um trời luôn.
– Còn hai người đóng chính thì sao?
– Ôi, có cũng được, không cũng hổng sao.
– Có nhận anh này làm chồng không?
– Đương nhiên không rồi! Con mến vai mà ảnh đóng thôi.
Bên bàn của nhóm “Nhạn – Vàng – Bình – Công”, Ernest Nguyễn đang chọc quê thằng bạn “Một bước thành Sao”. Đức Hoàng gượng gạo cười chứ không phản đòn như mọi khi, vì hắn còn phải giữ tỷ lệ lượt xem cho bộ phim kia.
Tống Ngạn vừa khui lon bia Con Cọp, vừa an ủi thằng bạn lên hương:
– Hết phim này rồi là mày khỏe.
– Ừ. Ở ngoài diễn kịch với nhau chưa đủ sao, mà còn phải chui vô phim đóng.
Quế Trân theo chàng mập đi ăn khuya. Cô đã lên được một ký sau hơn một tuần đi du hí với cả nhóm, kỳ này dìa dưới chắc tía – má mừng dữ lắm.
– Đức Hoàng kìa mập…
Khắc Xương gật, gật đầu. Rồi tiếp tục chúi mũi vô cuốn thực đơn.
– Anh thấy mấy bình luận trên mạng sao?
– Thật ra cũng là một dạng quấy rối tình dục.
Quế Trân nghệch mặt ra.
– Bây giờ tôi mà dùng chữ “Ngon” với cô thì ắt cô sẽ gán cho tôi cái tội danh đó phải không?
Quế Trân gật đầu lia lịa.
– Vậy thì sao phái nữ xài chữ đó với phái nam thì ít bị ai bắt bẻ?
Quế Trân nhíu mày nghĩ ngợi. Vẻ mặt của cô hệt khuôn đứa học trò học hoài, học mãi mà cũng chẳng biết cách giải đề.
– Cứ hễ thấy mấy cái clip quay cảnh phái nam ăn bận hở trên – hở dưới là y như rằng tôi lại thấy những mẫu câu quấy rối tình dục; có cái giỡn vui cười và có cái giỡn có thể trở thành một tội danh.
– Tui cũng hổng hiểu nổi trai tráng thiếu cha gì mà gặp đứa nào có nhan sắc chút là đòi đẻ con cho đứa đó, không thì cũng đòi làm vợ, rồi nói chảy nước miếng thèm thuồng này nọ. Đó hổng phải là sống thiệt gì sất, mà là vô duyên thúi.
– Vậy chớ cô thấy Saurabh sao?
– Thì ông đó rất đẹp trai và đóng phim hay. Chỉ vậy thôi. Có phải người tui thương đâu mà phải làm trò quằn quại để giữ chơn ổng.
– Có bao giờ cô muốn cưới “Bạch mã hoàng tử” không?
Quế Trân cười mà mặt mày buồn xo:
– Mình cũng phải tự ngó lại mình cái chớ. Có cái gì hơn người đâu mà đòi trèo cao.
Nhân viên phụ trách kỹ thuật âm thanh chọn bài “Hor den Bolero (Hold Me in Your arms again)” do Fancy trình bày để khuấy động bầu không khí. Chủ nhà hàng cũng như Thừa Tân, rất mê dòng nhạc trước năm 2000 nên đã dày công sắm sửa rất nhiều máy hát và radio cổ. Quỳnh Như bạo gan ra sàn nhảy, con nhỏ đem theo một bụng võ thuật mà đứng lên khiêu vũ, khiến cho Thừa Tân được phen ôm bụng cười sặc sụa.
Sau vài cuốn bò-bía, Quế Trân rời bàn mà đi về phía nhân viên phụ trách kỹ thuật âm thanh cho sân khấu và yêu cầu một bài hát yêu thích.
– Cô muốn nghe bài gì?
Quế Trân đáp là bài “Jimmi Jimmi Jimmi Aaja Aaja Aaja Aaja Re Mere” do Parvati Khan trình bày. Một bản nhạc Disco Ấn Độ nhưng lại rất phổ biến ở Nga-La-Tư (Russia), Bạch-Nga (Belarus) và Ô-Khắc-Lan (Ukraine); ngoài ra còn có một số nước thuộc khối Liên-Sô cũ cũng biết đến và thậm chí là yêu thích ca khúc này.
Trong khi đó, Khắc Xương đã lại quầy kem mà mua hai cây “Shaomei”; loại “Rose and Peach” cho nhỏ ròm và loại “Cookie and Boba Black Tea” cho mình.
– Cảm ơn mập nhen. Không có mập chắc tui hổng biết mấy nơi cao sang này ra sao hết.
– Ăn kem đi ròm.
Stephen Đoàn nửa đêm không ngủ được nên ra boong tàu ngắm “Sao rơi trên biển”. Anh độ rày đã có da có thịt, không còn hốc hác như cái thuở ở Giáo xứ St. Pio nữa; nhưng càng thay da đổi thịt chừng nào, anh lại càng có cảm giác mình xa Chúa chừng nấy. Sợi dây chuyền Thánh Giá mà anh hằng đeo trên cổ là di vật của người mẹ quá cố; ban đầu là bà bắt anh theo Đạo, sau này là tự anh để mình vào Dòng. Nếu như mẹ anh còn sống, ắt hẳn bà sẽ không bao giờ để anh đi tu, dù rằng bà rất mực sùng Đạo, bởi lẽ anh là đứa con duy nhất mà bà có trong cõi đời này. Nhưng tương lai vẫn tới, hiện tại đang xảy ra và quá khứ đã trôi về miền miên viễn, anh không thể nào vì một khối tình mà dứt áo ra đi được, nhưng làm cách nào để anh đoạn tuyệt với nàng đây?
…
Sau những ngày vui chơi nơi miền biển Hà Tiên – Kiên Giang, Thừa Tân và hai nhỏ cháu về lại Sài Gòn. Anh có mua cho mỗi đứa nhân viên một ký mực một nắng ăn lấy thảo, dù năm qua chật vật lắm quán mới không đóng cửa nhưng anh vẫn ráng hết sức thưởng và tăng lương cho đàn em.
Bữa nay quán nghỉ bán để Thừa Tân sắp xếp lại kho nhạc xưa của mình. Anh đã mua được rất nhiều tờ nhạc gốc và tiền xưa, hiện đang nghĩ cách trang trí sao cho vừa đẹp mà không quá phô trương. Một trong số những tờ nhạc mà anh kiếm được có bản “Nén lương lòng” của nhạc sĩ Thăng Long, bài này cụ viết để tưởng niệm nữ sinh Quách Thị Trang; trong tờ nhạc gốc cụ đề “Kính biếu gia đình Phật tử Chánh-Quang”. Ngoài bài này ra, còn có bài “Em là vì sao sáng” của nhạc sĩ Nguyễn Hiền cũng được viết ra nhằm lý do trên.
– Quán bữa nay nghỉ… Ủa?
Ba của Quỳnh Như, tức cảnh sát Hùng, ngả nón chào Thừa Tân.
– Ông uống gì không?
– Một ly cà-phê đen đá. Tôi trả tiền. Đừng mời.
– Dạ. Tôi cũng hết tiền để mời rồi.
– Nhỏ con tôi giống má nó nên ăn hàng dữ lắm.
Thừa Tân bật cười. Rồi đi lại tủ lạnh lấy đá viên và đường dạng si-rô. Anh vừa đi vừa hỏi tại sao hai vợ chồng ông lại trách cứ Quỳnh Như trong chuyện Yên Hồng có thai hoang.
– Tụi tôi trách cho bên nhà con Hồng im miệng thôi. Chứ tụi tôi đâu có bị đui mà đổ oan cho con mình. Con kia nó làm bậy thì nó phải chịu hậu quả chớ.
– Bữa nay ông tới đây kiếm tôi chi?
– Con nhỏ cháu tôi vẫn chưa chịu khai ra đường dây mãi dâm của nó và mấy mụ kia.
– Chuyện nghiêm trọng ra sao hả ông?
Ông Hùng hết bóp tay này lại xiết tay kia. Chừng Thừa Tân làm xong ly cà-phê vẫn chưa thấy ông trả lời. Chàng ta bèn sắp đồ lên kệ, những thứ này đều đã được rửa qua trong máy rửa chén nên khá trơn.
– Nếu là “bán trôn nuôi miệng”, tụi tôi có thể thư thư nhiều ít. Nhưng đằng này…
– Đằng này sao?
– Họ chuốc thuốc mê khách hàng rồi mổ sống cướp nội tạng tại chỗ.
“Xoảng.”
Thừa Tân vuột tay, làm cái ca thủy tinh tan thành ngàn mảnh.
– Cậu… Cậu bị sao vậy?
Thừa Tân ôm ngực thở dốc, miệng há ra liên tục như con cá mắc cạn.
– Thuốc ở đâu? Bị suyễn hả?
Thừa Tân ráng hết sức chỉ vô cái tủ thuốc treo đối diện với quầy thu ngân.
– Nè, uống liền đi.
Thừa Tân nuốt trộng hai viên thuốc, rồi che mặt ho sù sụ.
– Cho nên tôi mới không muốn để nhỏ con giao du với nó. Chớ, nó ăn ở với ai, tôi đâu có ghét bỏ đâu.
– Quỷ Dạ-Xoa chớ không còn là con người nữa.
– Ông chủ của cái đám chửi thuê hễ muốn trừ khử đứa nào trong bọn sẽ cho tiền đứa đó lại chỗ của con Hồng chơi gái…
Vậy là Thừa Tân đành gác lại chuyện quán xá mà dẫn ông Hùng về nhà thăm dò con nhỏ Yên Hồng. Kể từ ngày cho nó về ở, nhà anh ngày nào cũng có lính gác miễn phí, không phải bên cảnh sát thì cũng là đồng bọn của nó tới canh chừng nó.
Yên Hồng và Quỳnh Như đang tập làm bếp. Nhưng chưa đi được nửa đường thì bé con tên Như bị đứt tay nên xìu co ý định trổ tài “Nữ công gia chánh” cho ông chú lé mắt chơi.
– Để chú nấu cho mấy đứa…
Ông Hùng le lưỡi la:
– Con nhỏ này hậu đậu vậy không biết sau này sống nổi với má chồng không…
Ngó sơ qua nguyên liệu để trên bàn thì Thừa Tân đoán hai đứa nó muốn chiên trứng cá, nấu canh chua tép mòng và xào bò với bông thiên lý. Chỉ có bấy nhiêu đó món mà tụi nó cũng làm không xong nữa.
– Ông muốn ăn món gì?
– Nấu cho vợ tôi luôn nghe? Bả sắp qua đây rồi.
– Dạ được.
– Bả mua mắm chưng hột vịt ngoài tiệm rồi, có gì cậu luộc rau gì thêm thôi.
– Đâu được, ông. Khách tới nhà phải khoản đãi sao cho coi được chớ?
– Vậy để tôi coi trong tủ lạnh của cậu còn thứ gì thì nói cậu nấu món đó nghen?
– Dạ.
Sau một hồi lục tủ lạnh, ông Hùng thấy có da heo và ngó sen nên nói muốn ăn món gỏi da heo bóp thấu. Dù không ngó tới mặt Yên Hồng, ông vẫn cảm nhận được sự chột dạ của nó mỗi lúc một lớn dần. Xin Cửu Huyền Thất Tổ phù hộ độ trì cho đứa cháu dại dột của ông, ông không muốn nó phải ở trại giáo dưỡng tới chết đâu.
…
Những người khách quen đều có mặt trong ngày bán lại. Nhưng những đứa em của Thừa Tân thì thiếu rất nhiều thằng; nghe đâu vài đứa bị đánh rớt nên buồn quá đi làm không nổi, số còn lại thì về quê khoe với mẹ – cha và nghỉ ngơi một đôi ngày trước khi cày tiếp.
Trong quán đang phát bản “Lịch sử loài Người – Đoạn Một ” của nhạc sĩ Lê Thương do tứ ca bao gồm tác giả – Đức Minh – Thái Thanh và nhạc sĩ Châu Kỳ. Đoạn Hai của bài này nhạc sĩ Châu Kỳ không góp giọng, thay thế ông là người bạn đồng nghiệp Đức Quỳnh. Nhờ nghỉ ngơi mười ngày mà ông chủ tứ tuần đã tìm ra được rất nhiều nhạc phẩm trước năm 75 hiếm hoi và độc đáo – cả về phần lời lẫn giai điệu.
Yên Hồng đã đi khám thai với ba má Quỳnh Như. Còn con nhỏ kia thì đang cùng lớp nó ghé viện bảo tàng mà học Sử – Địa; đây là hoạt động ngoại khóa mà con nhỏ ghét nhứt, vì nó không ưa cách giảng dạy lê thê và bắt học sinh câm miệng của ông giáo già mặt nhăn hơn con Pug mặt xệ.
– Ê, bị gì mà mặt xanh chành vậy?
Đứa em theo Văn Khoa gãi đầu cười trừ:
– Sáng nhịn ăn nên bị tuột đường huyết thôi, anh Hai.
Thừa Tân bèn đặt gà chiên cho mấy đứa em khác, riêng cậu này thì anh cho ra ngoài mua bánh canh gà ăn vì cậu này không thích những món nhiều dầu mỡ.
– Có bài nào vui vui không ông chủ?
– Có.
– Đòi nhạc giựt thì tôi cho giựt.
Trong lúc Thừa Tân mở sổ tay ra coi lại các bài hát, người khách bận âu phục lại nói:
– Cái câu, “Mỗi thời có một gu âm nhạc riêng” là một dạng thức ngụy biện. Cái người ta đề cập là tình trạng hát không rõ lời và lạm dụng kỹ xảo âm thanh kia kìa.
Một người khách khác hỏi anh nghĩ sao về những ca khúc nổi tiếng vì có phần vũ điệu đẹp mắt hoặc dễ nhảy theo.
– Vậy nên gọi là bài nhảy đi, chứ bài hát gì mà toàn phụ thuộc vô giai điệu và vũ điệu không. Thời xưa có chữ “Bài nhạc” để chỉ những bản nhạc không lời đó, thì bây giờ áp dụng vô những bài có giai điệu – tiết tấu bắt tai mà nội dung thì sáo rỗng hay soạn lời cho có mà gọi nó là “Bài nhảy” đi.
Người khách mặc âu phục hỏi:
– Anh có bản nào lạ tai không?
– “Bóng hồng Việt Nam” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, và sẽ do ca sĩ trước năm 75 Hồng Vân trình bày.
Rồi vừa bỏ đá vào máy xay, Thừa Tân vừa kể chuyện vui:
– Nhờ một người mà tôi được biết nhạc của ông Thơ hồi xưa gọi là “nhạc cà-lăm” vì ông thường hay lặp đi lặp lại một câu hay sử dụng điệp ngữ hoài.
– Thí dụ được hôn?
– “Kinh cầu Tình Yêu”: Đời bể dâu, còn gì đâu, chỉ khổ đau, khổ đau, khổ đau, khổ đau đã nhiều rồi nên cuộc đời, cuộc đời còn thấy ấm lòng với cuộc tình mà thôi.
Người khách kia phì cười:
– Đặt câu nghe cà giựt, cà giựt…
– Ờ. Thêm nhạc sĩ Anh Việt Thu nữa. Hai vị này mà đồng sáng tác chắc ca sĩ cắn lưỡi tới chết.
Người khách uống xá-xị đá hỏi:
– Anh có bài nào mà nhạc đệm tưởng đâu là nhạc thời nay không?
– Có. Anh thử nghe nhạc đệm của bài này rồi so sánh thử coi có phải là một bản nhạc thời nay có phần nhạc đệm giống hệt vậy không nghe?
Nghe đâu được một đoạn, người khách mới hỏi tên ca khúc.
– “Sau mùa chinh chiến” của nhạc sĩ Tuấn Khanh 1933 do Thanh Tuyền ca.
– Trời ơi! Y chang luôn!
– Cho nên tôi mới nói thế hệ nhạc sĩ trong Nam trước năm 75 đã đi trước thời đại này từ rất lâu rồi. Thành ra tôi làm biếng nghe nhạc thời nay lắm, do giai điệu trùng với đời trước mà lại không hay bằng thì nghe làm gì.
– Hình như tôi thấy anh ít phát nhạc của Diên An?
– Phải. Một phần vì ông An sáng tác ít quá, phần còn lại là ít bài đặc sắc nên tôi ít giới thiệu.
– Anh có bài nào không?
– “Vết thương cuối cùng” do Ngọc Lan ca.
– Thôi, bài này nhàm quá, đổi bài khác đi.
– “Hồn lá úa” của nhạc sĩ Diên An, trong bài này ông đề bút hiệu là “Diên An – Quỳnh Trang”, người trình bày ca khúc này cũng chính là ổng luôn.
Người khách mua cà-phê đem về hỏi:
– Tính ra nhạc sĩ ở miền Nam trước 75 cũng có nhiều ông “Chỉ có một bài để đời” há?
– Phải. Nhiều vô số kể nữa là… Đâu phải ai cũng được như Phạm Duy, Lam Phương, Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Văn Phụng, Từ Công Phụng, Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Sơn, Tuấn Khanh 33, Phạm Thế Mỹ, Y Vân,…
– Anh có bao nhiêu băng nhạc vậy?
– Hơn năm trăm dĩa than. Chưa kể đến là băng cối nữa.
– Tôi uống ở chỗ anh thấy nhiều bài ưng quá nhưng lên mạng kiếm không có…
– Bởi vì có mấy ai còn băng gốc đâu mà họ sang nhạc cho anh nghe…
Quỳnh Như được thả về nên liền chạy ù tới quán. Vậy là Thừa Tân bèn ngừng tiếp chuyện với khách mà quay sang chuyện trò với nó:
– Muốn ăn kem không cô? Tôi cho tiền qua đường mà mua “Baskin-Robbins”.
– Cho nhiều-nhiều nhe chú? Trời nực như vầy ăn ba viên kèm đồ bổi mới đã.
Thừa Tân vỗ đầu nó một cái rồi cũng chiều ý mà đưa luôn năm chục đồng. Nó cười toe với anh một cái trước lúc băng qua đường mua kem ăn.
– Bây giờ anh muốn nghe ai?
– Tài Lương.
– “Mùa mưa kỷ niệm” của nhạc sĩ Đài Phương Trang.
– Anh nhắc tới mùa mưa mới nhớ, độ rày chưa vô mùa-mưa mà mưa dữ quá, làm bán buôn hổng được gì hết trơn.
– Vậy bây giờ tôi mở bài “Nắng hồng xa xôi” của nhạc sĩ Anh Việt Thanh do Phương Thu ca để cầu trời ráo hoảnh nghen?
– Anh Việt Thanh gọi Anh Việt Thu bằng chú – cháu hay cậu – cháu gì đó phải không?
– Dạ. Là bà con trong họ, do ngưỡng mộ ông Thu quá nên ông Thanh đặt bút hiệu gần giống anh lớn.
Một ông già cũng ngồi nơi quầy thu ngân hỏi:
– Có bài nào về mưa mà lạ không bây?
– “Tháng Bảy Saigon mưa” do Giao Linh ca, người sáng tác rất có thể là nhạc sĩ Trường Hải hoặc nhạc sĩ Thái Ngọc Sơn, hoặc cũng có thể là cả hai.
Người khách nãy giờ nói chuyện với anh bật cười hỏi:
– Tại sao?
– Tại vì hai vị đã từng đồng sáng tác nhạc phẩm “Saigon chiều mưa”. Tôi thấy chữ “Saigon” giống cách viết quá nên nghĩ người viết rất có thể là một trong hai vị hoặc là cả hai.
Một người khách mua trà sữa đem về hỏi:
– Anh đáng tiếc nhứt là điều chi?
– Đáng tiếc là rất nhiều bài hay nhưng nhạc sĩ không chịu đề tên trên phần giới thiệu mà lại ghi “Khuyết danh”, thành ra đời sau không biết được ai là chủ sở hữu, dẫn đến nhiều khứa thời nay nhận vơ tác phẩm rồi thâu tiền tác quyền luôn.
Cho nên mới có cái chuyện, “Ủa bài này tôi nhớ của A/B/C… mà?”, nhưng kỳ thực A/B/C lấy cắp bản nhạc rồi tự ý nhận mình là người sáng tác. Hoặc vì lý do chính trị mà những ca khúc của nhạc sĩ như Anh Bằng, Lê Dinh, Minh Kỳ, Trần Thiện Thanh,… bị sửa tên “thân sanh”.
Để chắc ăn, nên tra cứu tờ nhạc gốc hoặc coi lại phần bìa của dĩa hát; mà phần bìa của dĩa hát cũng hên – xui, vì bị in lộn kha khá.
Do độ rày lo lắng vụ của con Hồng nên bệnh tim của Thừa Tân bị tái phát. Anh bị rối loạn thần kinh thực vật, tuy không uống thuốc đều đặn nhưng tình trạng của anh hồi trước không có tiến triển xấu, mà nay vì một người dưng căn bịnh này lại trở nên tồi tệ hơn. Sau khi giao quán cho mấy đứa em, anh bỏ lên gác nằm nghỉ một chút; trong óc anh hãy còn ong-ong những lời của cảnh sát Hùng và điều tra viên điển trai kia.
Không thấy ông chú đâu hết, Quỳnh Như liền biết ổng đang ở trên gác. Nó nhanh chân lại trên trển kiếm thử. Tiếng giày búp-bê của nó vang rền khắp căn nhà.
– Chú.
– Để tôi yên cô ơi.
– Tiếc tiền kiểu gì mà bịnh luôn vậy?
Thừa Tân ngồi nhỏm dậy. Cái ghế sô-pha bị sức nặng của anh đẩy lệch một xíu. Anh hỏi:
– Mua gì đó?
– Ừm, “Love Potion N31”, “Mint Chocolate Chip” và “Baseball Nut”. Mua ba viên tặng một viên nên con lấy thêm viên “Lunar Cheesecake”.
– Trời ơi, nghe là muốn bị tiểu đường rồi!
– Con với chú ăn chung há? Con lấy tới hai cái muỗng lận.
Thừa Tân lắc đầu và xua tay:
– Chỉ có ghệ – gộc mới ăn chung thôi cô ơi.
Quỳnh Như ẹo qua ẹo lại mà trách:
– Chú cổ hủ quá chú ơi! Thời nào rồi mà còn yêu nhau mới ăn chung, bạn bè khác giới ăn chung bình thường chứ bộ… Nè, cầm lấy.
Bất đắc dĩ Thừa Tân phải múc vài muỗng cho nó vui. Nhưng mà kem ngon thiệt, bị tiểu đường cũng đáng.
Quỳnh Như vẫn liếng thoắng:
– Ăn thêm đi chú. Người ta nói ăn kem cải thiện được tâm trạng đó chú.
– Với điều kiện là người ta dư tiền, con à.
Quỳnh Như cong môi giận dỗi.
– Đáng ra tui hổng có mua cái bạc hà đâu, ăn dở ẹc hà, tại chú mà tui mới mua đó.
– Mua cho tôi có một viên, một mình cô quất tới ba viên… Thảo ăn ghê ha?
Quỳnh Như cười mỉm chi beo.
– Thôi, bữa nay có ưu đãi, lát nữa cô với cô kia qua bển ăn cho đã thèm đi, tôi cho tiền.
– Sao chú dễ thương vậy mà hổng có bà nào nghía vậy?
Vừa chép miếng kem, Thừa Tân vừa trả lời:
– Cô không thấy kim cương quý hiếm nên ít ai sở hữu được sao? Lè lưỡi phản đối cái gì? Muốn bị tôi đòi tiền kem lại hả?
Quỳnh Như bóp vai cho ông chú mới chớm già đã khó tánh toàn thân, ra vẻ nịnh nọt để xù tiền.
– Chú có tin tưởng vào những giải thưởng âm nhạc quốc tế không?
– Ngày xưa thì có, bây giờ thì không.
– Tại sao?
– Một bài hát nói về ham muốn tình dục mà cũng được giải thì hỏi sao tôi tin tưởng được?
– Dạ, con nghe mà chỉ biết ước mình đừng biết tiếng Anh để khỏi phải lấn-cấn.
– Bây giờ phần đông thường mến chuộng những bài hát sôi động và có thể bắt nhịp nhảy được, nội dung sáo rỗng, lời ca dung tục nhiều cỡ nào thì họ lại càng khoái chừng đó. Ai phản ứng hay chỉ trích thì họ nói người ta “đạo đức giả”, “bóp nghẹt sự sáng tạo”,… Sáng tạo kiểu gì mà chọn biểu tượng thờ phụng Satan làm vật trang trí sân khấu hoặc làm bối cảnh quay ca nhạc? Rồi thậm chí là đứng trước tượng Phật mà ăn bận khoe thân và nhảy múa dung tục?
Quỳnh Như chu môi gật gù.
– Còn nữa…
– Sao hả chú? – Quỳnh Như vừa nói vừa chọc, chọc cái muỗng vô viên kem “Lunar Cheesecake”.
– Ca sĩ nữ ăn bận riết thiếu điều muốn khỏa thân biểu diễn luôn. Ca thì lọc qua máy gần hết ráo, lên biểu diễn trực tiếp chỉ nghe thấy tiếng thở hổn hển và nhảy… có người nhảy yếu tới độ y chang đang tập dưỡng sinh.
– Chú.
– Chi?
– Con muốn nghe một người miền Nam hát bằng giọng Nam Kỳ rặt. Không phải vì đồng tiền mà sửa giọng Bắc hay ca những bản có nội dung gốc Bắc.
– Chỉ có cô bạn của tôi thôi.
Quỳnh Như rướn người nâng cửa sổ lên cao.
– Nhiều người họ thực sự không hiểu hát đúng giọng miền Nam là phải hát đớt, hát ngọng, hát nghịu. Hát đúng giọng miền Nam là phải như Hương Lan, Tài Lương, Huệ Phương, Giao Linh, Hùng Cường, Đắc Chung,…
– Chú chán lắm rồi hả chú?
– Ờ, hết muốn nói về đề tài này nữa rồi.
Yên Hồng nhắn rằng nó đã về. Thừa Tân gởi cho nó một trăm đồng mà biểu qua lộ mua kem ăn đi, bữa nay có ưu đãi mua ba viên tặng một viên.
Trong lúc đợi Yên Hồng lên, Thừa Tân quay qua nói với Quỳnh Như:
– Con người thời nay phần đông ưa xô bồ – xô bộn nên chỉ cần một hiệu ứng đám đông là một bài hát bình thường sẽ trở nên nổi tiếng. Để rồi năm tháng qua đi, cái bài hát đó phải trở về với vị trí thực sự của mình.
– “Serenade” vẫn là “Serenade”, “Gangnam style” vẫn là “Gangnam style”.
– Phải, “Gangnam style” đã hết thịnh hành rồi. Nhưng “Serenade” đã trở thành bất hủ.
Quỳnh Như nhác thấy xe bán đồ chiên đã tới nên đứng ở trên mà nói vọng xuống đặt mua. Nghe tiếng nhỏ mối ruột, ông già bán hàng rong mừng rỡ kêu, “Rồi”, “Rồi; và bắt tay vào việc ngay tức thì.
– Cho nên tôi chẳng bận tâm bài đó có nổi tiếng hay là không, cái tôi bận tâm là bài đó có hay hay là không.
– Chú sống theo lối “tụt hậu” vậy chú thấy sao?
– Thấy nhẹ đầu và không bị trở thành một con trong bầy đàn.
– Chú độ rày có chuyện gì buồn liên quan tới âm nhạc không?
– Có người muốn bứt phá trong sự nghiệp nên đã bứt luôn cái gốc miền Nam. Giờ cái gì cũng rặt Bắc hết.
Người bán những món chiên đã làm xong phần ăn của con nhỏ Quỳnh Như. Ông trút mớ hổ-lốn ấy vào một cái hộp nhựa lót sẵn giấy thấm dầu, rồi mới xắt dưa-leo để trên. Kế đó, ông bỏ mấy bịch tương-ớt, tương-cà và tương-xí-muội và tương-đen vô bịch nylon.
– Con đi học thêm nghen chú? Cảm ơn chú đã tiếp sức cho con với mấy con kia nhe?
– Đi cẩn thận đó. Nhớ đừng đứng nghe điện thoại ngoài đường, mất của thì còn kiếm lại được – chớ thân thể mất mát là mệt lắm đó.
– Dạ!!!
– Con này thiệt tình… – Thừa Tân vừa vuốt, vuốt lỗ tai cho bớt đau vừa cười khổ.
Yên Hồng mua kem xong đã lên gác giăng mùng ngủ luôn. Lần nào khám thai cũng phải nằm lì trên cái giường chết tiệt đó, trước giờ nó không thể nằm mà thiếu gối nên việc bắt nó nằm siêu âm mà không cho kê gối đầu đã khiến nó cảm thấy như đang bị cực hình khủng khiếp.
…
Những ngày gần đây quán nhỏ của Thừa Tân thường xuyên tiếp đón những vị khách kỳ lạ; một vài người sau này anh nhận ra họ là ký giả, một số khác thì anh suy đoán họ là cảnh sát chìm đi thu thập tin tức hoặc bên phía kẻ chủ mưu trong thảm án “Bát Bửu” phái tới.
– Có bài hát nào là lạ không anh?
– Yêu cầu của anh là gì?
– Hiếm người biết.
Thừa Tân nhịp-nhịp ngón trỏ trên mặt bàn:
– Ai ca mới được. Hay là sáng tác của ai? Nói rõ ràng vậy mới kiếm mau chớ!
– Từ Công Phụng hoặc Văn Phụng. Ai ca cũng được.
– Thời nay đào lại sáng tác của hai cụ mà hát gần hết ráo rồi…
– Vậy hả? Vậy ai cũng được.
– Rồi. “Chung thủy” của nhạc sĩ Văn Phụng do giọng ca đã bị lãng quên Mai Hân trình bày.
– Ủa?
– Giờ mới nhớ ra.
– Mai Hân có bà con với Mai Hương không anh?
– Hình như có. Nếu tôi nhớ không lầm thì đây là em của cô Hương.
– Tôi kêu hủ tíu vô đây ăn được không anh?
– Dạ, miễn đừng xả rác là được. Và ráng đừng có đổ nước lèo xuống bàn nhiều quá, tội mấy đứa em của tôi.
– Dạ.
Một người đàn ông ăn bận như điều tra viên lại quầy mà hỏi Thừa Tân:
– Tôi có thể nói chuyện riêng với anh một lát không?
– Dạ được.
Thừa Tân giao lại quán nhỏ cho người quản lý mà anh mới được một tuần. Rồi ra hiệu cho điều tra viên theo mình lên gác để nói chuyện riêng. Đây là người thứ hai mà anh phải tiếp trong tháng này.
Điều tra viên đưa mắt nhìn căn gác một lượt, và phát hiện thấy có vài sợi tóc dài vương lại trên nệm sô-pha. Hương nước xịt phòng “Febreze Air – Cotton Fresh” tuy không nồng lắm nhưng vẫn làm chàng ta cảm thấy bị gắt mũi.
– Xin lỗi. Nơi này thường bị chim bồ câu làm ổ nên tôi phải xịt nhiều.
– Ừm, người thích thơm tho thì như vậy là vừa, còn tôi thì không ưa nên hơi khó chịu xíu.
Vậy là Thừa Tân kéo cửa sổ lên để đón gió trời. Căn gác tù mù mau chóng ngập tràn ánh nắng và tiếng ồn ào thế gian.
Điều tra viên quá đỗi ngạc nhiên trước sự cách âm tài tình của căn phòng. Nhưng ráng dằn xuống để tránh bị người chủ quán dòm thấu tâm can.
– Tôi hay bị nhức đầu nên phải xây phòng kín… Nằm đây ngủ một giấc là khỏe lại liền… Y như trong nhà xác vậy…
– Có thí dụ nào giúp người nghe không liên tưởng tới sát nhân biến thái không cha?
– Có, con. Mà chưa nghĩ ra thôi.
– Anh cho tôi ngồi ở đâu đây?
– Trên sô-pha đi. Dưới sàn chưa có hút bụi ngồi khó chịu lắm.
Buổi thẩm vấn chính thức diễn ra. Những câu hỏi mà điều tra viên đặt ra có liên quan tới Yên Hồng, thành ra Thừa Tân rất khó khăn để trả lời. Vốn là dân lão làng nên chàng ta hiểu liền ông chủ quán không phải có tật giật mình mà chỉ đang mắc cỡ mà thôi.
– Cảm ơn anh vì đã bỏ thời giờ quý báu mà ngồi đây nói chuyện với tôi. Và cũng xin anh giữ bí mật giùm tôi.
Đương nhiên Thừa Tân sẽ giữ bí mật, bởi lẽ anh cũng chưa muốn bị đưa lên bàn mổ đâu.
Kết thúc giờ thẩm vấn, Thừa Tân xuống dưới phụ mấy đứa em pha chế và lau rửa.
Một người khách mặc đồ bảo vệ lại hỏi anh một câu hỏi về sự chuyển hướng của giới ca sĩ thời nay. Và chàng chủ quán trả lời rằng.
– Cô Hương Lan không ca những bài hát có âm điệu miền Khác. Cô thành danh từ đâu thì cô giữ cái hồn ở đấy, không thay đổi để phục vụ thị hiếu ai hết.
Ngươi khách ấy đăm chiêu.
– Nhạc sĩ Y Vân đã viết tặng cho cô bài “Nước mắt Hương Lan”. Tên khác của ca khúc này là “Nước mắt trẻ thơ”. Phần Tân nhạc là của Y Vân và Cổ nhạc là của Viễn Châu.
– Có bài nào mà cô Tuyền song ca với Nhật Trường không anh?
Thừa Tân liệt kê vài ca khúc, người đàn ông kia khoát tay và nói, “Nghe hết rồi.”
– Vậy “Chiều lên bản Thượng” của nhạc sĩ Lê Dinh nghe chưa?
Anh ta vỗ tay cái bốp:
– Được đó!
– Bác Dinh còn có bài “Thương về xứ Thượng”, cô Thanh Tuyền là người trình bày đầu tiên. Ngoài ra bác và nhạc sĩ Minh Kỳ còn có bản “Tiếng hát Mường Luông” nữa, nếu như tôi nhớ không lầm thì cô Thanh Thúy là người đầu tiên ca bản này.
– Vậy chắc ổng hay lên Cao Nguyên chơi lắm.
– Chắc là vậy.
– Có bài nào mà cô Tuyền song ca với Bùi Thiện không?
– “Việt Nam, mừng ngày mai” của nhạc sĩ Ngân Giang.
– Bài này mới toanh nha.
– Nhờ nghỉ ngơi mà tôi mới có thời gian lục lại mấy bài cũ thiệt cũ.
– Mốt kiếm mấy bài giống vầy phát nè, nghe mấy bài buồn riết chết sớm.
– Thì phải yêu cầu thì tôi mới biết anh thích kiểu nhạc ra sao chứ. Im-im, im-im thì ai mà hay.
– Bài nào khó kiếm trên mạng á.
– Được rồi. “Nhớ Trúc Giang” của nhạc sĩ Châu Kỳ. Bảo đảm không có ca sĩ trước năm 75 nào ca bài này luôn.
Người khách bật cười khúc khích:
– Ờ, nhiều khi sáng tác xong chưa lựa được giọng ca ưng ý nên tác giả chỉ đành in tờ nhạc mà phát hành thôi.
– Phải.
– Có bài nào là tiếp nối hoặc cùng chủ đề với bài khác không anh?
– Có chứ. “Lệ buồn nhỏ xuống tim tôi” là đoạn kết của bài “Mai Em lấy chồng”; bài đầu do nhạc sĩ Mai Trường sáng tác độc lập, còn bài sau là phỏng theo ý thơ của thi sĩ Du Tử Lê. Rồi nhạc sĩ Trường Sa rất thích hình ảnh người em gái đan áo nên đã viết nên những bài như “Chuyện người đan áo” và “Nghìn khuya” – Trong bài này ông đề tên là “Hoàng Vân Nguyên”. Riêng nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, nhạc sĩ Vinh Sử và nhạc sĩ Thanh Sơn ưa đưa hình ảnh cánh đồng lúa chín vào những bài tình ca Quê Hương của mình.
– Rồi, kiếm giúp tôi bài nào hiếm mà có người ca đi.
– “Đợi người về”, nếu tôi nhớ không lầm thì đây là một sáng tác của nhạc sĩ Ngân Giang hoặc là của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, do song ca Khánh Ly – Nhật Trường trình bày.
– Có bài nào lạ hơn nữa không anh?
– “Mây trắng biên thùy” của đôi tác giả Minh Kỳ – Y Vân do Thanh Thanh Hoa trình bày.
– Rồi, chốt bài đó đi.
oOo
Trên đường trở lại Vĩnh Long, nguyên đoàn dừng chân nơi cây xăng dọc đường để đổ thêm nhiên liệu; sẵn tiện đi vệ sinh luôn.
Kiều Xuân trở ra xe trước tiên. Không biết làm gì để tay chân đỡ luống cuống, nàng đành mượn mấy trái quýt làm nơi trút sầu. Quýt này là quýt hồng Lai Vung, vỏ mỏng, thịt mọng, nhiều nước, ngọt nhiều hơn chua, thời tiết nắng nóng như vầy bỏ tủ lạnh rồi đem ra ăn giải khát đã lắm. Mấy cái trái lột rồi, nàng để riêng một bên, để dành cho người thương ăn.
– Anh Mỹ.
Stephen Đoàn lúng túng đón lấy bịch quýt lột rồi, quên mất cảm ơn nàng.
Kiều Xuân hình như cũng chẳng trông đợi chàng sẽ nói lời nào, nên lại cúi mặt lột quýt tiếp.
Lần này, Stephen Đoàn mạnh dạn ngồi xuống cạnh người thương. Vẫn không nói với nhau lời nào, một bên ăn quýt và một bên lột vỏ, không ánh mắt ai chạm phải ánh mắt ai. Ngoài trời đã lất phất mưa bay, những hạt mưa đậu trên kính cửa sổ trông như thể vách tường khảm ngọc, gió nhè nhẹ đưa hơi lạnh vào trong xe.
Ignacio Cường sững sờ ngó trân người bạn đồng tu và cô giáo Xuân. Nhưng nghĩ bữa nay là ngày cuối nên quyết định nhân nhượng cho họ.
Khắc Xương bị mất chỗ nên nhận phần lái xe. Cái tướng ú ì của anh không thể nào ngồi ghế đơn ở dưới được. Sáu Quới thấy vậy bèn cùng Henrico Thạnh ngồi ở băng ghế đầu.
Stephen Đoàn đột nhiên mở bài “Tiễn Em” do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ thơ của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, qua phần trình bày của Sĩ Phú:
“Lên xe tiễn Em đi
Chưa bao giờ buồn thế…”
Kiều Xuân và Ngọc Mỹ ngó nhau bằng ánh mắt ướt rượt.
“… Em ơi, khóc đi Em, khóc đi Em, khóc đi Em…”
Y-Nhã Cường quay xuống và vỗ vô vai Stephen Đoàn một cái đau điếng:
– Giờ, tu xuất hay ở lại?
Stephen Đoàn vừa gạt lệ vừa trả lời:
– Ở lại.
Y-Nhã Cường thở dài:
– Tôi chưa từng yêu ai nên không thể hiểu cảm giác của anh lúc này.
Kiều Xuân đã cạn trơ nước mắt. “Suối lệ xanh” của nàng đã lịm tắt từ lúc nghe mối tình cuối nói những lời trên; nghe như là thổ lộ, kỳ thực là đang dập tắt mọi hy vọng mà nàng đang nhen nhóm trong lòng.
– Em mời anh nghe “Niệm khúc cuối”.
Bài hát ấy tên là “Nghìn trùng xa cách” của nhạc sĩ Phạm Duy, nhưng không phải là “Tiếng hát vượt thời gian” của Thái Thanh mà “Tiếng hát đại hồ cầm” của Duy Trác.
“… Nghìn trùng xa cách, đời đứt ngang rồi
Còn lời trăn trối, gửi đến cho Người…
Nghìn trùng xa cách, Người cuối chân trời
Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho Người…”
Stephen Đoàn lấy hai tay che mặt hòng để cho người con gái mà chàng thật lòng thương không thấy rõ cảnh chàng khóc.
– Em xin lỗi vì đã khiến anh khốn khổ như vầy.
Kiều Xuân nói một cách trơn tru, âm thanh y chang phát ra từ máy ghi âm, rõ ràng, rành mạch mà sao nghe hư ảo khôn cùng.
Stephen Đoàn vừa lau mặt vừa gượng gạo nhếch miệng nói bâng quơ:
– Ừ, “Em chỉ là em gái thôi, người em sầu mộng muôn đời.”
Sắp tới địa phận Vĩnh Long, Ignacio Cường đột nhiên ra hiệu ngừng xe. Dù không biết tại sao, Khắc Xương vẫn đồng ý, nhưng với điều kiện để anh ta kiếm chỗ đậu xe an toàn cái đã. Vậy là chiếc xe đi thêm được hai cây số nữa.
Chiếc xe dừng lại bên một quán cóc bán nước giải khát và bán các món viên giá rẻ cho tuổi Mực tím và giới “cần-lao để sống”.
Khắc Xương xuống mua vài hộp đồ ăn và mấy ly nước, không quên mua hai bịch khăn lạnh cho hai người kia. Quế Trân cũng lục tục nối gót theo.
Stephen Đoàn siết chặt chuỗi Mân Côi mà Richard Lãm tặng cho. Tràng hạt hằn lên tay chàng những “Vết lăn trầm” đỏ bầm, những đầu móng tay đỏ rực như muốn bật máu. Chàng đã ngừng khóc từ lâu mà nước mắt vẫn cứ rơi hoài, rơi mãi.
Y-Nhã Cường ước chi giờ này Thanh Liên có ở đây. Bác sĩ Tâm Thần thể nào cũng sẽ biết cách xoa dịu thần kinh của hai kẻ đang rối bời vì lụy tình; nhìn họ khóc hoài anh thực lòng chịu hết thấu rồi. Bỗng anh bẽ bàng nhận ra, cái tánh hung dữ và nóng nảy của mình chẳng giải quyết được cái gì hết, và còn khiến mọi chuyện tầy quầy thêm.
Khắc Xương trở ra xe nhắc nhở quan khách đi vệ sinh. Longiuns Kiến, Louis Quới và Ignacio Cường bèn xuống xe.
– Lam Khiết Anh bị phá tướng ở một chỗ…
Đợi cho hai bà khách đủ tò mò rồi, bà thầy bói mới nói tiếp.
– Đó là hai bên thái dương bị lõm vô.
Quế Trân vô thức đưa tay lên rờ hai bên thái dương. Căng đầy. Không bị khuyết hãm xíu nào hết.
– Trong Nhân Tướng học, đại kỵ nhứt là mười nét mà đẹp chín – xấu một, nó sẽ phá tanh banh hết mấy cái tốt mà chín chỗ kia đem lại.
Chợt, ngó thấy Kiều Xuân, bà thầy bói phán:
– Cô bị phá tướng ở cặp mắt. Cặp mắt buồn quá, dẫu đang vui cũng làm cho người ta tưởng lầm là cười gượng.
Kiều Xuân dụi dụi đôi mắt đỏ hoe:
– “Bắt phong trần, phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.”
Vốn ghét bói toán nên Y-Nhã Cường giục nhóm người ấy mau lên xe.
Trước lúc chia tay với bà thầy Tướng Số, Khắc Xương biếu bả một phong bao lì-xì trắng có in hoa văn là khóm Trúc Quân Tử và dòng Thư Pháp tốt lành. Bà thầy nhận liền, rồi nói anh có phước lắm mới kiếm được một người vợ hiền lương – thục đức, bả không nói tên nên anh không chắc bả đang nói tới ai, thành thử chỉ biết gục gặc đầu cười giả lả cho qua lề.
Trước khi Ignacio Cường nộ khí xung thiên, Stephen Đoàn tự giác chuyển chỗ khác ngồi. Vậy là Khắc Xương xuống băng chót ngồi với Quế Trân, và Kiều Xuân lên cái ghế đơn đằng trước chỗ của Quế Trân.
Longiuns Kiến nói Louis Quế mở một bài nào đó cho bầu không khí bớt căng thẳng. Sau một lúc suy nghĩ bài nào không “phạm húy”, chú mới chọn được một bài vừa ý. Bài ấy do Thanh Tuyền ca, tên là “Bông lan” của soạn giả Quế Chi (Loan Thảo), phần giai điệu đã được đôi nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng – Nhật Ngân hòa âm phối khí lại đôi chút; cũng xin nói thêm, khi đưa cho cô Tuyền ca bài này, hai ông đã bỏ đi chữ “Bánh” trong tên bản gốc, chỉ giữ lại hai chữ sau là “Bông lan”:
“Bông lan cánh trắng nhụy vàng
Qua thương cô nàng khéo nướng bánh bông lan
Xe đò Lục Tỉnh ớ… thênh thang
Quen hơi nhớ tiếng
Quá giang tìm dìa
Quá giang tìm dìa…”
Quế Trân khoe rằng:
– Bánh gì tui cũng biết làm hết á.
Khắc Xương cười gian hỏi:
– Vậy cô có biết làm bánh xe hôn?
Quế Trân trợn mắt:
– Dô diên. Mốt có làm cũng hổng cho ăn đâu.
Ngoại trừ Kiều Xuân, Stephen Đoàn và Ignacio Cường, hết thảy đều cười ầm ĩ.
Longiuns Kiến giới thiệu:
– Cô Hương Lan và anh Chí Tâm có song ca bài này, nhưng phần Tân Nhạc là của nhạc sĩ Viết Chung.
– Quành xe! Về lại An Giang giùm tôi! – Ignacio Cường bất thần la lên.
…
Phương Đại đang ca bài “Người về từ đỉnh núi” do đôi nhạc sĩ Thăng Long và Dzu Tử chấp bút. Quán cà-phê nhỏ nằm dưới gần Ngọa Long Sơn bữa nay rất đông khách phương Tây, những thức uống mà họ thường gọi là nước thốt-nốt, nước mủ-trôm, nước bình bát dầm sữa đặc, nước đá me và nước hạnh muối; nhóm của bà Ái Liên cũng không ngoại lệ.
Do chưa sẵn sàng trở về Giáo xứ nên “Đoàn người lữ thứ” trở lại Cô Tô để khuây lãng tâm trí đang bị rối bời. Người cầm lái đương nhiên là Longiuns Kiến. Trước khi lên trển, bà Ái Liên chiêu đãi nguyên nhóm một bữa bò bảy món, bò leo núi, gà đốt Ô Thum và xôi phồng Chợ Mới ở một nhà hàng tọa lạc tại thành phố Long Xuyên.
Châu Lợi đang giúp một người trạc tuổi ông vác một buồng thốt-nốt. Vẻ ngoài trẻ hơn tuổi thật đã khiến nhiều người đồng trang lứa đã coi ông như con – cháu trong nhà; ông cũng không bận tâm đính chính, ai muốn kêu sao thì mặc họ, dẫu sao cũng chỉ là hình tướng mà thôi.
– Ông thầy, quá giang hôn? – Longiuns Kiến thò đầu ra ngoài cửa mà vẫy tay í ới um sùm.
– Không.
– Sao dzậy?
– Tôi còn phải đi vô mấy cái xóm nhỏ len theo rìa núi nữa. Xe này mà lái vô, rớt sao?
– À há… Vậy tôi lên trên trển trước nha?
– Sadhu.
– Alleluia.
Châu Lợi vác đi được thêm vài chục mét nữa, đã thấy Hỷ Tín bước lại gần và ngỏ ý vác thay. Lần này ông không từ chối.
Sau những lần chết hụt và bị đồng nghiệp bán đứng, Hỷ Tín không còn bận tâm đến thế sự nhiễu nhương nữa, bao nhiêu trí lực của cậu đều dồn hết vào kinh điển Phật Pháp và chấp niệm trả Nghiệp đã gây. Đôi chân của cậu đã chai sạn và hằn lên những vết sẹo Tam Bảo, mỗi lần bị thương do đi chân trần là một lần cậu cảm ngộ được một bước đường đời sai lầm của mình đã để lại hậu quả ra sao.
– Cầm sai cách rồi. Vác vậy lát bộ đồ của cậu rách bươm hết.
Châu Lợi giúp Sa-di bị câm sửa lại tư thế vác buồng thốt-nốt. Nếu không bị gia đình của cậu này đập bể đầu, ắt hẳn giờ này ông đã có vợ con đề huề và đang khổ sở với vòng xoáy kim tiền của thế gian, chứ đâu được thảnh thơi và thong dong như vầy.
– Tín.
Hỷ Tín ngừng bước và nán lại mà nghe Thầy cậu sai bảo.
– Tôi không còn ghét gia đình cậu nữa.
Hỷ Tín chắp tay mà mấp máy lời cảm ơn không thành tiếng.
– Cậu đã rũ bỏ được cái cốt của Đề Bà Đạt Đa, cái cốt rình rập hại người rồi tự làm hại luôn mình chỉ vì Ác Niệm không đáng có, cái Ác Niệm khởi xướng từ sự Vô Minh của bản tâm.
Hỷ Tín nhoẻn miệng cười mà gật đầu. Dẫu đã mất đi giọng nói nhưng đổi lại cậu được sự thanh thản vô hạn, không cần phải đi cự lộn với người dưng hay đi rình coi ai nói gì để về méc lại với chủ, bây giờ cậu là chủ nhân của cậu, không ai có thể sai khiến cậu làm điều cậu không thích hay ép buộc cậu phải gây sự khắp nơi nữa.
Đến cái xóm đìu hiu nằm trên một góc núi Cô Tô, hai Thầy – Trò sóng vai nhau mà ghé nhà bà lão neo đơn để đưa buồng thốt-nốt.
– Làm phiền hai đứa quá!
Châu Lợi và Hỷ Tín chắp tay mà cúi đầu chào bà lão trước khi trở về tịnh thất. Hỷ Tín đưa mắt nhìn gian nhà tồi tàn của bà lão, chợt nhận thấy Nghiệp của mình thêm nặng, còn nhớ năm nào cậu được giao viết bài bảo vệ một tên tham quan ăn chặn tiền trợ cấp cho người già cùng khổ, những lời lẽ mạt sát người ta bây giờ chúng đang quay lại mạ lị cậu, hàng vạn cái chữ như hàng vạn kim nhọn đâm thẳng vào thân thể cậu khiến cậu đau đớn khôn nguôi…
– Khóc được thì cứ khóc. Nhưng nước mắt của cậu không xóa được cái Nghiệp Ác mà cậu đã gieo đâu. Tới lúc trả Quả thì vẫn phải nhận lấy thôi; không đời này thì cũng là đời khác.
Đi thêm độ vài trăm mét, hai người trông thấy Longiuns Kiến ra hiệu mời lên xe; thì ra ông Cha Dòng đã xuống xe ở đây để đợi hai người, trong lúc chờ họ, ổng và những người khác đi chụp hình và ngoạn cảnh ở những khu vực quanh đây.
Ngôi tịnh thất vẫn im lìm như mọi khi. Chẳng có lấy một mống du khách hay Phật tử viếng thăm. Dù sắp tới Lễ Phật Đản, Tăng đoàn không trang hoàng chi sất; ấy vậy mà quang cảnh nơi đây luôn tươi đẹp vô cùng.
– Ở chơi mấy ngày? – Thanh Liên vừa hỏi vừa khiêng giùm ba-lô của bà Ái Liên và kéo giùm hành lý của Quế Trân và Kiều Xuân.
Ignacio Cường cười tươi đáp:
– Không quá bốn bữa.
Rồi đó, ai về phòng nấy ngủ trưa.
Ngó theo bóng lưng của Stephen Đoàn, Thanh Liên quay qua nhìn Trì Thương.
Như hiểu ý của Thầy, chàng Tăng sĩ lắc đầu nhè nhẹ mà nói:
– Yêu? Tôi không muốn yêu ai, thưa Thầy.
Thanh Liên bật cười:
– “Lòng trần còn tơ vương khanh tướng thì đường trần mưa bay gió cuốn. Còn nhiều Anh ơi…”
Phòng ngủ của nhóm Tăng sĩ y hệt buồng giam. Mỗi bên kê cái sạp đóng bằng cây trò chỉ, trên lót một tấm chiếu mỏng, mỗi bên có một cái mùng lớn, rồi thôi. Kể từ ngày Thủy Diệu và Hoàng Kỳ gia nhập Tăng đoàn, vì chiều cao quá khổ của bản thân mà cả hai được xếp nằm cuối phòng; hai cái sạp ở khúc đó phải nối liền lại để hai người duỗi chân thoải mái hơn. Trên trần gắn ba cái quạt bốn-cánh công suất cỡ đại đặng giúp cho không gian nơi đây thoáng khí và bớt ngột ngạt hơn, dù rằng cửa sổ nằm ở vách tường đầu phòng nhưng vẫn không giúp ích được là bao.
Chỗ nghỉ chân của nhóm Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế nằm kế bên phòng ngủ của nhóm Tăng sĩ Theravada, nhưng trong phòng có thêm cầu tiêu – nhà tắm và một góc đọc sách chan hòa ánh nắng. Diện tích của căn phòng khá lớn, nghe đâu là để phòng sau này Tăng đoàn có thêm nhiều người. Khắc Xương tự biết tác người của mình quá lớn, cộng thêm khác Đạo, nên đã qua phòng khác ngủ; phòng của chàng Luật sư nằm đối diện với phòng của họ, nhưng diện tích nhỏ hơn chút xíu.
– Thầy. – JB Khải đánh tiếng. – Sao không nằm ngủ cho khỏe hả Thầy?
– Tôi muốn đọc thêm sách để tối nay đấu khẩu với nhóm Tăng sĩ.
Ignacio Cường chỉ biết lắc đầu cười. Anh đang coi bà con trong xứ trang hoàng nhà thờ cho Mùa Chay theo sự chỉ dẫn của Cha GB Thành và Cha Augustino Dương; chiếc Chrome Book – Window 11 này là quà tặng sanh nhựt sớm mà Thanh Liên dành tặng cho anh, đúng là tiền nào của đó, máy vừa nhanh lại êm tai, không kêu ồ ồ như người bị sặc nước giống cái máy cũ hết xài được của anh.
– Cường.
– Sao Thầy?
– May mà Thanh Liên không phải Sơ. Nếu không chắc thằng Dương chết luôn quá.
– Bạn con thôi, yêu đương gì ở đây Thầy?
– Cái máy mà mày đang xài bằng một năm tiền lương công nhân ở đây. Lại còn cài thêm nhiều nhu liệu mắc tiền nữa nên tổng cộng phải hơn hai ngàn Mỹ kim. Chưa kể đến là bàn phím, con chuột, Webcam, loa ngoài và cây viết nữa.
Stephen Đoàn đang nghe Richard Lãm giảng về một Phúc Âm. Anh và người bạn Đan sĩ đều có giọng nói và tiếng hát hay như nhau, còn về mặt tề gia nội trợ thì “Hai phương trời cách biệt”. Dẫu sống độc lập từ nhỏ nhưng không hiểu sao anh chẳng thể nấu được món gì ra hồn, thậm chí là chiên trứng hay dễ ụi nhất là đi nấu mỳ.
Độ khoảng ba giờ chiều, Longiuns Kiến và các trò đi lại hang động mà nhóm Tăng sĩ thường tề tựu ở đó để hành Thiền và học Đạo.
Louis Quế chưa tới hang động ấy lần nào nên háo hức lắm. Chú vừa cất bước vừa giơ máy quay phim để ghi lại “Hai kỷ niệm – Một chuyến đi”. Dù đã cố gắng hết sức, nhưng chú vẫn vô tình quay trúng khách du lịch; có người không mảy may để tâm, có người lại bực mình văng tục.
Nhờ bàn tay của Tăng đoàn mà nơi đây đã trở thành đồng hoa tuyệt sắc, khắp miền uyên nguyên trần thế đâu đâu cũng thấy màu sắc tươi tắn của hoa thơm – cỏ lạ. Rất nhiều đôi yêu nhau đã lên đây chụp ảnh cưới hay hẹn hò, những ngày đó nơi đây mất đi sự thâm u và nhiều thêm những âm sắc ồn ào trần thế. Không biết tự bao giờ, trên một gốc cây đại thụ chết khô nằm cạnh con đường đã phát quang “mọc ra” một giàn bông giấy Cẩm Thạch mới nhu nhú những búp hoa be bé, xinh xinh.
– Lành thay.
Là Sa-di Duy Hảo.
Đến nơi, nhóm Linh mục thấy má và anh Hai của Tăng sĩ Trì Thương đang bày biện mâm trà chiều. Trên cái bàn đẽo từ đá núi bị lở, có một dĩa thèo lèo – cứ* chuột, một cái quả đựng mứt ngũ sắc và một tô chà-là khô; ngoài ra còn có một bình trà Thiết Quan Âm giữ ấm trong trái dừa khô và mười mấy chiếc tách giả kiểu gốm sứ Pháp Lam. Tới chừng mắt đã quen với bóng râm trong hang động, Longiuns Kiến và các trò của ông mới thấy thêm chàng mập Khắc Xương.
Longiuns Kiến được mời ngồi xuống trước tiên, kế đó mới tới Louis Quế, Ignacio Cường, JB Khải, Henrico Thạnh và Stephen Đoàn. Chỗ ngồi của ông Cha Dòng có cột đá làm điểm tựa nên cái lưng già của ông đỡ mỏi và đau nhức. Trước lúc ăn uống – chuyện trò, ông cùng các con chắp tay đọc Kinh và làm dấu Thánh; trong khi chờ đợi, nhóm Tăng sĩ giữ im lặng và thiền “mở mắt” mà quán sát hơi thở cũng như sự Biến Thiên của cõi Ta-Bà.
– Rồi. – Longiuns Kiến vừa ra thông báo vừa vỗ tay cái bốp.
Chân Tâm cười hỏi:
– Bữa nay ông muốn bàn về chủ đề nào?
– Ấn Độ Giáo.
– Được thôi.
Nói đoạn, Chân Tâm mời nhóm Linh mục mau ăn uống.
Longiuns Kiến hỏi:
– Tôi muốn biết về các vị Thần Nữ trong Hindu.
Thanh Liên đáp:
– Mời ông coi “MahaKali – Devi Durga theme song”. Đây là Nữ Thần Durga, thường được xem là một Chiến Thần xuất hiện với vai trò Đấng Cứu Thế, tức là nơi đâu có Quỷ dữ và Sự tà ác thì Bà sẽ xuất hiện ở đó để tiêu diệt chúng.
JB Khải hỏi:
– Tương tự như Vishnu?
– Phải.
Louis Quế bình phẩm:
– Tạo hình cỡi con sư tử này giống một vị Bồ-Tát trong “Tây Du Ký” quá.
Châu Lợi bật cười:
– Ngô Thừa Ân đã lồng ghép rất nhiều hình tượng và điển tích Ấn Giáo vào mà.
Longiuns Kiến hỏi:
– Còn clip nào nữa không?
Người trả lời vẫn là Chân Tâm:
– “Jayanti Mangala Kali” do nữ diễn viên Pooja Sharma đảm nhận. Trong phim này Saurabh đóng vai Chúa Shiva, nhưng tạo hình không hạp vai, thành thử ít được người khen.
Phú Lâm biết Sáu Quới có gia đình đề huề nên pha trò:
– Nếu anh yêu thương cổ, cổ sẽ là Parvati. Và nếu anh phản bội cổ, cổ sẽ là Kali.
– Vậy là kỳ này con ghệ tôi thành Kali hoặc Durga rồi.
Phá Vân gật gù:
– Thành Durga còn có đường sống, chứ thành Kali là coi như xong.
Những người bạn đồng Đạo của ông Thầy Sáu ngó ổng mà nở nụ cười đầy thương hại.
Châu Lợi bình phẩm:
– Nếu muốn giết được Chúa Quỷ, thì phải trở thành Sát Thần. Tức là muốn tiêu diệt Cái Ác thì phải ác bằng hoặc thủ đoạn hơn nó mới được.
Louis Quế giơ tay xin phép ngắt lời. Nhận được sự đồng ý của Châu Lợi, chú mới hỏi:
– Nãy giờ ca sĩ hát cái gì mà “Ôm… Ôm…” hoài vậy anh?
– “Om Namoh Shiva…” Một điều thú vị là cách sắp đặt cái trống bỏi và chuỗi tràng hạt lên cây đinh ba tạo thành chữ “Om”, mà chữ này đã được rất nhiều nhà khoa học chứng minh là chữ khởi nguồn của thế giới, vì hình dạng sóng âm của chữ “Om” được tìm thấy ở khắp Vũ Trụ, từ vân xoắn ốc của loài Ốc cho đến Hố Đen đều có. Bên Mật Tông cũng cho rằng chữ “Om” là một chữ linh thiêng và huyền nhiệm. Trong Theravada, đọc theo tiếng Pali là “Om Namoh Budhaya…”
– “Ôm Nam Mô…” nghĩa là gì?
Thủy Diệu nhận phần trả lời:
– Giống như Alleluia và Hallelujah thôi. Là một dạng câu tán thán và chúc tụng.
– À… – Longiuns Kiến gật gù.
Đoạn Trần trình bày:
– Trong nhiều tích truyện của Ấn Giáo thì Đế Thích và Chư Thiên thường bị đại bại trước binh đoàn của Quỷ Dữ, bởi vì sao ư, bởi vì họ quá thiện lương và luôn sợ chúng sanh sẽ tổn thương nếu như bên họ và bên Phi Thiên nổ ra chiến tranh, thành thử khi chiến đấu thường theo kiểu cầm chừng; ngược lại Quỷ Dữ lại vô cùng hiếu sát và khát máu, chúng chẳng cần biết đến sự lầm than hay đau khổ của ai hết, chỉ cần đạt được thắng lợi mà thôi, thành ra chúng dễ dàng thắng Vua Trời và các vị Chư Thiên. Do đó Chúa Shiva, Chúa Vishnu và Đại Thiên Nữ Parvati phải hóa thân thành Sát Thần mà đồ sát hết những ai thuộc phe Ác.
Longiuns Kiến nhớ đến các Tổng Lãnh Thiên Thần nên đâm ra muốn coi thử các trận chiến trong thế giới Ấn Giáo diễn ra như thế nào.
Và Trì Thương giới thiệu rằng:
– “Shiv Tandav Stotram”, vai Chúa Shiva do Saurabh đóng. “Shiv” là chữ viết tắt của “Shiva”.
Nghe đâu được một đoạn, ông Sáu Tửng bật cười khúc khích:
– Nhạc Kinh mà hòa âm phối khí theo kiểu nhạc vũ trường.
Thanh Liên mỉm cười:
– Ấn Giáo rất thích nhảy múa mà. Tôi có biết một nữ thí chủ chuyên môn bật Kinh Ấn Độ lên nhảy và điệu múa mà cổ chọn thường là điệu múa của Chúa Shiva và Chúa Vishnu trong biến thân Chiến thần Krishna.
– Trời đất ơi! Gì mà loạn Đạo dữ vậy?
– Trong Đạo bên tôi đâu có cấm.
Trì Thương bổ sung:
– Đa số tín đồ Ấn Giáo rất giỏi Yoga, biết nhảy múa và năng hành Thiền.
Longiuns Kiến hỏi:
– Rồi cổ sao?
Thanh Liên kể:
– Đã lấy chồng Ấn Độ rồi, và người này là một vũ công theo Ấn Giáo. Thành thử trong nhà không bao giờ có thịt bò, mỗi lần chồng cổ tính hỏi thịt cổ đang ăn là gì cổ trả lời luôn là, “Trong này không có “Nandi” đâu”, vì Nandi là tên Thần Bò. Cứ hễ đưa đồ cho chồng bằng tay trái là bị chồng chửi, “Em đang xúc phạm anh.” Riết, cổ biết ý, mỗi bận tay phải không rảnh là cổ khỏi đưa món gì luôn. Có lần cổ tức quá mới hỏi lại, “Vậy anh ngủ với tôi bằng mấy tay?”
Louis Quế cười ngặt nghẽo hỏi:
– Rồi giờ họ sống ở đâu?
– Bên Mỹ.
Longiuns Kiến hỏi:
– Rồi rốt cuộc cổ có theo Đạo tòng không?
– Không. Cổ chỉ tham gia lễ hội Ấn Giáo cho vui thôi. Cổ và chồng cổ hay nhảy vũ điệu của Chúa Shiva và Nữ Thần Parvati trong những ngày lễ lớn. Và chồng cổ cũng cùng cổ cúng dường cho Tăng đoàn mỗi sáng Chủ Nhật.
Thanh Liên kể:
– Saurabh đã chấp nhận để bạn diễn đạp thẳng lên bụng, chứ đa số người thủ vai này thường để cho bạn diễn đặt chân lên bụng mà thôi. Còn trong nguyên gốc, Nữ Thần Parvati trong biến thân MahaKali nhảy lên bụng Chúa Shiva rồi đứng đó nhảy vũ điệu “Hủy Diệt”.
Quế Trân và Kiều Xuân ngỏ ý muốn nghe về chuyện tình của Chúa Shiva và Nữ Thần Parvati.
Trì Thương trả lời:
– “Girija Me Urja Shi Se Hai” hoặc “Shiv Shakti Se Hi Purn Hai”.
Rồi người Tăng sĩ có vẻ ngoài rạng rỡ như ánh trăng Rằm khẽ khàng trình bày:
– Shakti là biến thân hoàn toàn của Mẹ Nguyên Thủy, tức Đại Thiên Nữ Aadi Parashakti, Bà có quyền năng gần bằng với vị Devi này. Do muốn giúp con gái là Aditi báo thù Bà mà một vị Thần đã khẩn xin Bà đầu thai làm con mình. Dù biết trước âm mưu của ông Thần này, nhưng Bà vẫn gật đầu chấp thuận và đưa ra giao kèo rằng nếu ông làm điều chi phật ý Bà thì Bà sẽ ra đi. Thỏa thuận xong xuôi, Bà chia tay Chúa Shiva và đi đầu thai. Nhưng ông Thần đó đã không giữ lời hứa… Sau khi Bà trưởng thành, dưới danh nghĩa công chúa Sati, đem theo khối tình muôn thuở dành cho Chúa Shiva, Bà đã khẩn xin người cha đời này cho mình được cưới Ngài Mahadev làm chồng. Bị ông ngăn cản quyết liệt, Bà đã bỏ nhà đi lên núi Kerdanath mà sống với Ngài ấy luôn; hôn lễ của họ do vợ chồng Chúa Brahma và vợ chồng Chúa Vishnu cùng Đế Thích Thiên và Chư Thiên tổ chức cũng như chứng giám. Vui vầy cuộc sống với nhau chưa được bao lâu, thì một ngày dông bão ập tới. Bữa đó ông Thần ấy tổ chức một yến hội linh đình, ai cũng mời hết, ngoại trừ vợ chồng Bà. Mặc dầu mang danh Đấng Hủy Diệt nhưng Chúa Shiva lại là một người hết sức rộng lượng và bao dung, hay được tin kia cũng chỉ cười xòa và khuyên vợ rằng hai ta ở nhà đi. Nhưng Bà một mực muốn đi, vì nghĩ dù sao cũng là cha ruột, nên muốn nhân cơ hội này mà làm lành với ông. Dè đâu, Bà vừa tới nơi, ông liền nhiếc mắng, xua đuổi hết lời. Quá phẫn uất, Bà bèn tự thiêu. Trước lúc gục xuống, Bà nguyền rằng bất cứ ai đang hiện diện trong căn phòng này đều sẽ bị chồng Bà giết chết…
Thanh Liên nhận phần kể tiếp:
– Chúa Shiva đã làm theo di nguyện của Bà. Nhưng Ngài đã hồi sinh tất cả theo lời khẩn cầu của Chúa Vishnu. Sau đó, Ngài ẵm cái xác của Bà mà đi lang thang vô định, mặc kệ chúng sanh tự sinh tự diệt. Nhân lúc ấy, Atula trỗi dậy và đánh chiếm Cõi Trời. Trên trời thì bất ổn, dưới trần thế thì loạn lạc; cứ thế kéo dài gần cả ngàn năm. Chúa Vishnu phải dùng dĩa Chakra mà phân xác của Bà ra thành nhiều mảnh để thức tỉnh Ngài Mahadev; bên Ấn Độ vẫn còn những ngôi đền được tương truyền rằng đây là nơi mà mảnh thi thể của Bà đã nằm lại. Ngài Mahadev đau khổ tới mức đã trở về Kerdanath và nhắm mắt tọa Thiền, phó mặc vạn sự cho hai vị Thượng Đẳng Thần cùng chúng Chư Thiên; trước lúc Nhiếp Tâm, Ngài đã phát thệ rằng chỉ mở mắt khi nào Bà trở về.
Chân Tâm nối bước:
– Trải qua thêm một thời gian nữa, Bà tái sanh dưới thân phận công chúa Parvati và vẫn ôm theo khối tình với Chúa Shiva. Lần này Bà bị má Bà ngăn cản không cho cưới, vì bà Hoàng hậu chê Ngài Mahadev vẻ ngoài đáng sợ và nghèo nàn quá. Sợ rằng bi kịch lặp lại, Chúa Vishnu mới biểu người bạn thân hủy hôn lễ và hẹn ngày khác tới cưới. Và quả nhiên, sau khi được anh bạn thân giúp ăn bận theo kiểu Hoàng tộc lúc bấy giờ, vẻ đẹp của Ngài Mahadev bắt đầu hiển lộ; theo những người thờ tự Ngài thì Ngài còn đẹp trai hơn Ngài Narayana vạn lần. Để chắc ăn, Chúa Vishnu nhờ vợ là Nữ Thần Lakshmi biến ra vàng bạc – châu báu để giúp anh bạn thân có sính lễ cho đàng gái. Đương nhiên, bà má vợ cười tươi mà đồng ý cái rụp.
Trì Thương vừa châm thêm trà cho từng người vừa kể:
– Chúa Shiva chỉ nhảy vũ điệu đó với Nữ Thần Parvati mà thôi. Và dẫu đầu thai ở bất kỳ nơi đâu, bất kỳ giai cấp, bất kỳ thân phận nào, Ngài và Bà vẫn trở thành vợ chồng với nhau. Chưa kể đến, mỗi bận Bà biến thân ra sao – Ngài sẽ biến thân y hệt vậy nhưng theo hình thái tánh nam.
Thanh Liên tiếp:
– Chúa Shiva chịu hạ mình để làm vợ nguôi giận và bình tĩnh lại, và Nữ Thần Parvati phải vì chồng mà trở nên kiên cường hay điên loạn. Cứ hễ Bà mắc cỡ vì sự xấu xí của biến thân của mình, Ngài Mahadev sẽ biến thân hệt vậy để Bà đỡ ngại ngần.
Stephen Đoàn bất giác đưa mắt ngó mông lung trên giàn hoa hồng leo màu cam-phấn ngoài kia. Hoa hồng leo vốn không có gai, tùy ý tay ai ngắt hái đều được, nên tự thân nó phải biết trườn bò để lẩn trốn những đôi tay nhớp nhúa không biết nâng niu cái đẹp của mình, song có thoát được đâu…
– Mỹ!
Tiếng kêu như cọp gầm của Ignacio Cường đã làm Stephen Đoàn hồi thần.
Sợ sấm động giữa trời quang nên ông Thầy Phó Tế vội vàng kiếm chuyện đánh trống lảng. Chú cười hề-hề mà mời cậu Cha Phó ăn thử món bánh-ít lá-gai và bánh-bò đường thốt-lốt. Cậu em của chú dù không hảo ngọt song vẫn bấm bụng bốc một cái bánh-ít.
Chừng thấy êm xuôi rồi, JB Khải mới đặt câu hỏi:
– Anh nghĩ sao về cách diễn của Saurabh?
Thanh Liên trả lời:
– Khi đóng vai Chiến Thần Krishna, Saurabh phải đi đứng kiểu cách, hay cười hay giỡn và nói chuyện điệu đà để giống với hình tượng đã mô tả trong kinh sách Ấn Giáo…
Louis Quế cắt lời:
– Hèn chi mà tôi thấy ảnh nói bẻ mồm bẻ miệng quá chừng.
Thanh Liên vừa gật đầu vừa làm ấn thủ xác tín:
– Còn khi đóng vai Chúa Shiva, Saurabh phải giữ khuôn mặt nghiêm trang, ánh mắt luôn trầm buồn và khuôn miệng cứng ngắc. Đặc biệt không bao giờ chú tâm chải chuốt hay chưng diện.
Louis Quế vỗ đùi cái đét:
– Vậy ra cậu này đóng nhập tâm chớ?
Thanh Liên bật cười:
– Phải, tiếc là khuôn mặt quá hiền và ánh nhìn quá đỗi dịu dàng nên không thể hiện được tánh nam trong bản thể Chúa Shiva.
Longiuns Kiến hỏi:
– Bên Đạo các vị có nhạc phim không?
Chân Tâm đáp:
– Bài hát đó thường được biết đến với cái tên của bộ phim “Chakravartin Ashoka Samrat”, dịch sang tiếng Việt là “Ashoka Đại đế”. Bản gốc dài gần sáu phút, còn lên phim thành nhạc dạo mở đầu nên chỉ còn dưới hai phút.
Thanh Liên bổ sung:
– Người đóng vai Đại đế Ashoka lúc lớn đã từng đóng vai Chúa Shiva, trong bộ phim đó thì Saurabh thủ vai Chúa Vishnu.
Ignacio Cường hỏi:
– Ảnh tên gì Liên?
– Mohit Raina.
Giai điệu hào hùng của bản nhạc đã làm nhóm Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế cảm thấy như được rưới nước lạnh trên đỉnh đầu xuống tận gót chân. Đã lâu ông Thầy Dòng mới tìm lại sự sục sôi khí huyết và nhịp đập mãnh liệt của con tim.
– Tôi thật không ngờ bên Phật Giáo cũng có bài hát về nhân vật lịch sử trong Đạo.
Tăng đoàn nhìn nhau mà cười xòa.
Rồi đó, Phá Vân nêu quan điểm của mình:
– Hầu hết những đế vương đã từng thân chinh trên sa trường đều được đời sau viết tặng nhạc phẩm.
Longiuns Kiến đập bàn cái rầm:
– Phải, đích thân mới được nể trọng, chớ còn trốn đằng sau cánh gà mà lùa quân đi đánh thì ai mà kính phục?
Ignacio Cường bình phẩm:
– Dẫu thua trận, bị hành hình hay bị đọa đày trong lao tù, những người đó vẫn đáng mặt đại trượng phu. Chứ thứ dòng xòe tay năm ngón để mặc cho binh lính dưới trướng xông pha thay mình thì không xứng với cái chức một xíu nào.
Louis Quế nêu cảm nghĩ:
– Tôi thích cái đoạn “Ashoka… Hey… Ashoka… Ha…”
Trì Thương đính chánh:
– Là “Ashoka hain… Ashoka tha…”
Louis Quế mời giải nghĩa.
– Tạm dịch: Đây là tiếng hô vạn tuế bên Ấn.
Longiuns Kiến vừa nhai chà-là khô vừa hỏi:
– Bên tôi có Vua David, mấy vị có muốn nghe chuyện về Ông không?
Nhóm Tăng sĩ gật đầu đồng ý.
Vậy là Longiuns Kiến bèn kể từ đầu chí cuối về cuộc đời và sự nghiệp của Vua David cho mọi người nghe. Thỉnh thoảng, ông ngừng lại để nêu quan điểm cá nhân và đặt câu hỏi cho Tăng đoàn để đôi bên cùng tranh luận.
Ngừng buổi tranh luận nửa tiếng để đôi bên nghỉ ngơi lấy sức, Thanh Liên dẫn nhóm Linh mục vô coi Vườn Lan.
Vườn Lan có thêm một trăm chậu nữa, đa số chiết từ những cây già sắp chết ở đây, số còn lại là nhặt được ngoài đường. Vẻ đẹp của cây Lan – Thiên-Nga và cây Lan – Con-Ong đã thu hút được sự chú ý của hai người Giáo sĩ lãng mạn, ai nấy thi nhau giơ điện thoại lên mà chụp lại.
– Muốn đem về trồng không? – Châu Lợi hỏi.
Sáu Quới chịu liền.
– Thích chò nào nữa thì cứ việc đem về. Khỏi phải hỏi han – xin phép.
Sáu Quới hớn hở gọi điện hội ý với bà-xã.
– Tôi thích Lan – Cẩm-Cù. – Maria Bích nói bằng cái giọng hiền ơi là hiền.
Châu Lợi day qua hỏi Stephen Đoàn:
– Còn cậu?
– Dendro-Xuân. Tôi chưa từng thấy loại lan này trên đời.
– Nó nằm ở đây… – Châu Lợi chỉ xuống mé hữu.
Thanh Liên nói:
– Loài hoa đó tượng trưng cho “Tình yêu vĩnh cửu”.
Ignacio Cường hỏi:
– Tại sao nó lại có thêm chữ “Xuân”?
Stephen Đoàn giải thích:
– Vì nó chỉ trổ bông vào mùa Xuân.
Hương thơm nồng nàn của loài lan ấy nổi bật hẳn giữa rừng hoa đương mùa ra hoa. Stephen Đoàn đưa tay mơn nhẹ cánh hoa một đỗi rồi mới nhấc chò lan ấy xuống.
Louis Quế đặt câu hỏi:
– Phân biệt sư khất thực giả ra sao hả mấy vị?
Chân Tâm trả lời:
– Tụi tôi chỉ khất thực mỗi buổi sáng, và trước mười một giờ trưa là phải quay lại tịnh thất để Thọ Thực trước Chánh Ngọ. Những thứ mà tụi tôi nhận không thể hoặc ít có thể quy đổi ra hiện kim – tài vật, thí dụ như đồ ăn – thức uống, bông hoa, nhang đèn,…
Longiuns Kiến gật gù:
– Còn mấy người mạo danh kia thì kiếm ăn giờ nào được thì đi.
– Phải. Và Ma Tăng cũng vậy.
Longiuns Kiến vừa giơ điện thoại lên chụp hình vừa hỏi Chân Tâm:
– Bên cậu quy-tắc cho đồ sau?
– Chỉ cho đồ tụi tôi cần và khuyến khích món đồ đó là đồ cũ hoặc mua dư nên không xài tới. Đặc biệt, càng rẻ tiền và cũ rích càng tốt.
Một nhóm khách du lịch thấy mọi người nói chuyện xôm tụ nên áp vô chơi. Chừng thấy bên trong là Vườn Lan tuyệt sắc thì kinh ngạc tròn mắt hỏi búa lua xua; có người còn tự ý lấy luôn mấy chò lan, Tăng đoàn cũng không nói lời nào, việc bị mất kiểng là chuyện thường tình mà họ gặp.
Ignacio Cường bực mình hỏi Thanh Liên:
– Anh không sợ họ quay lại lấy hết luôn sao?
– Không sợ. Vì có nhớ đường đâu mà quay lại lấy được.
Longiuns Kiến càm ràm:
– Cái nết “Hái lộc”. Bạ đâu cũng “Hái lộc”. Hái riết vặt trụi thiên nhiên.
Stephen Đoàn muốn học cách chiết nhánh trồng lan nên ngỏ ý nhờ Thanh Liên dạy giùm. Thanh Liên bèn đẩy sang Trì Thương; Trì Thương mát tay ương cây hơn anh nhiều. Giống lan mà chàng Cha Phó chọn có tên là “Alfresco”, đây là một phân-chi của nhà Lan Huệ, phải gọi bằng tên tiếng Anh để dễ bề phân-biệt chúng.
Chân Tâm chợt nói:
– Cái gốc đã chết thì nên dồn hết tâm sức cho những mầm non mới nhú. Ta không thể khôi phục nguyên bản, nhưng có thể làm cho sắc hương của cái gốc tiếp tục sống thông qua thế hệ tiếp nối của nó. Cái gì thực sự là Chân – Thiện – Mỹ, dẫu bị vùi chôn đi chăng nữa, một ngày nào đó cũng sẽ quay trở lại và có thể thậm chí rỡ ràng hơn xưa.
Stephen Đoàn nhìn Chân Tâm bằng ánh mắt thật hiền:
– Anh thích lan nào hả Tâm?
– Tôi ư? Lan Trầm-Trắng và Hạc-Vỹ. Nhưng trên đây hai loại lan đó không có, nhờ một thí chủ cúng dường hai chậu lan héo mà trên đây mới có nhiều như ngày hôm nay.
Vừa ngó thằng con ốm nhom cho đất vô chò, Longiuns Kiến vừa kể những vấn nạn liên quan tới “Giáo sĩ trị” bên Đạo mình rồi buông xuống một câu kết luận:
– Đi theo cái Đạo nào mà cũng mang tư duy tôn sùng chức sắc trong Đạo thì muôn đời ngu muội và mù quáng.
Chân Tâm bật cười:
– Cho nên tụi tôi đâu có muốn ai đứng ra đại diện lãnh đạo Tăng Thống. Đấng Thế Tôn đã lường trước mọi nguy cơ nếu thành lập một tổ chức tôn giáo có quy chế chặt chẽ rồi nên Ngài đã không đồng ý truyền lại chức Giáo chủ cho ai hết.
JB Khải hỏi:
– Khác nhau ở chỗ nào?
– Quy chế khác với Giới luật. Quy chế là cách thức xây dựng và tín điều để làm nên một tổ chức tôn giáo. Còn Giới luật đặt ra để giữ gìn Tăng – Ni trong vòng tay của Bát Chánh Đạo.
Longiuns Kiến hỏi:
– Vậy theo các vị ai mới là người xứng đáng lãnh đạo Phật Giáo?
Chân Tâm trả lời:
– Đấng Thế Tôn đã nói chỉ có hàng chư Phật mới được lãnh đạo Phật Giáo.
JB Khải ngạc nhiên hỏi:
– A-La-Hán với Bồ-Tát cũng không được luôn?
Chân Tâm gật đầu:
– Phải. Xin nói rõ hơn, hai Quả vị trên chỉ quán xuyến chứ không có lãnh đạo Phật Giáo.
JB Khải lại hỏi:
– Đạt Lai Lạt Ma nghĩa là gì?
Chân Tâm trả lời”
– “Lạt-Ma” có nghĩa là “Thầy tu”, còn “Đạt Lai” có nghĩa là, theo thiển ý của tôi, là “sở học bao la như đại dương”.
JB Khải sẵn đả hỏi tới:
– Trước đây Đạt Lai Lạt Ma có…
Chân Tâm lắc đầu:
– Không. Trước đây ảnh hưởng của Đạt Lai Đạt Ma chỉ nằm trong xứ Tây Tạng, trải qua nhiều thời kỳ biến động thì sức ảnh hưởng của các Thầy ấy mới trải rộng ra thế giới.
Longiuns Kiến hỏi:
– Còn Tam Tạng là ai?
Chân Tâm mỉm miệng cười mà rằng:
– Có thể ví như các Hồng Y bên ông.
– À, thí dụ này dễ hiểu nè.
Louis Quế đặt câu hỏi:
– Tại sao có những ông thầy mới đầu vô tu tốt lắm mà sao càng già càng lẫn và hành xử khiếm nhã vậy?
Lần này người trả lời là Đoạn Trần:
– Vì họ không thiền định và nhiếp tâm, mà chạy theo xô bồ thế gian hay bị nặng gánh nước non. Khi không có Chánh Định và Chánh Tinh Tấn, sẽ không có Chánh Niệm, không có Chánh Niệm sẽ không có Chánh Kiến và Chánh Tư Duy, không có Chánh Kiến và Chánh Tư Duy sẽ không có Chánh Ngữ và không có Chánh Ngữ sẽ lụi tàn Chánh Nghiệp và Chánh Mạng.
Khắc Xương nêu câu hỏi:
– Sống đừng có tạo Nghiệp có đúng không Thầy?
Thanh Liên trả lời:
– Ai nói câu này, nhứt là những thầy tu, đều nên về học và đọc lại Tạng Kinh hết. Vì mỗi bước đi là một bước tạo ra Nghiệp; Nghiệp Lành hay Dữ, Ác hay Thiện, là quyết định ở mình. Chỉ có Chư Phật và A-La-Hán mới không tạo Nghiệp mới mà thôi, thành ra nói “Sống đừng có tạo Nghiệp” là nói tầm bậy, câu này thường được Ma Tăng đem ra làm bùa ru ngủ con nhang sống trong sự mông muội và vô cảm với kiếp nhân sinh, đặc biệt là để bảo vệ chánh quyền mà chúng thờ tự.
Longiuns Kiến tròn mắt hỏi:
– Đã là Phật mà vẫn còn Nghiệp sao?
Thanh Liên vừa ngắm con sâu-lông nằm trên cái lá lan Vũ Nữ vừa đáp:
– Đức Phật và A-La-Hán vẫn phải lãnh Quả Báo từ những Nghiệp tiền kiếp. Nhưng, trong kiếp này, Đức Phật và A-La-Hán không còn tạo ra Nghiệp mới nữa nếu giữ vững tâm theo Bát Chánh Đạo. Thí dụ như Tôn giả A-Nậu-Lâu-Đà, em họ của Đức Phật, anh Hai của Đề-Bà-Đạt-Đa và Ananda, vì tiền kiếp làm hại người ta bị mù mà kiếp này Ông đã bị mù luôn; song, cái Nhân đưa Ông đến với sự mù lòa không phải là Nhân xấu, mà là Nhân Lành, tức là sao, tức là Ông tham Thiền tới độ mù luôn cả hai mắt và mở ra được Thiên Nhãn, tuy Ông không thấy được cảnh sắc thế gian nhưng Ông lại thấy được các Thiên Giới.
– Hổng hiểu?
– Câu chuyện trên, theo thiển ý của tôi, là có nghĩa như vầy: Đôi mắt gắn trên cái mặt của chúng ta ưa nhìn mọi thứ dựa trên sự phiến diện và chủ quan của Ngã Mạn, nhưng ̣đôi mắt nằm ở trong tâm sẽ đưa chúng ta đến bến bờ của sự Giác Ngộ. Thành thử, Ông đổi ánh sáng Vô Minh của thế gian và nhận lại ánh sáng của Sự Thức Tỉnh; cho nên việc Ông bị mù không phải là một điều bất hạnh mà là một sự bù trừ tuyệt vời.
– À, giống như “Được cái này thì mất cái kia” vậy mà.
– Nhưng Đức Phật không dạy đổ lỗi cho tiền kiếp, người bịa ra điều này phần đông là Ma Tăng chuyên vẽ vời cúng kiếng và trục vong. Thường thì có ai thắc mắc, Ngài mới giải thích cho họ hiểu vì căn cớ nào mà đời này của họ lại khổ như vậy; cho nên trong Phật Giáo mới có nhiều câu chuyện kể kiếp trước làm cái này thì kiếp sau bị thế đó.
– Vẫn không hiểu để chi vậy?
– Để cho họ hiểu đời là Vô Thường. Mà những người được Đức Phật giải mã Nghiệp – Quả đời trước hầu hết đều có căn tu, cho nên nghe xong thảy đều xuất gia và sau đó chứng đắc A-La-Hán ráo trọi.
Henrico Thạnh xen vô hỏi:
– Tại sao Đức Phật không chọn người thường?
– Vi người thường rất dễ bị ám ảnh và đau khổ nếu như nghe được chuyện Tiền Kiếp, dám chừng phát điên luôn ấy chứ; cho nên Ngài ưa chọn kể chuyện Tiền Kiếp của các vị Tăng – Ni, Cận-Sự nam và nữ hay chính bản thân Ngài mà thôi.
JB Khải vòng tay trước ngực:
– Có thí dụ không?
– “Kinh Pháp Cú: 3. Phẩm Tâm” số 35.
Louis Quế tặc lưỡi:
– Hèn chi mà nhiều nhà tiên tri hổng thấy đường mà lại có thể đoán được chuyện vị lai hay đọc được quá khứ của người khác.
JB Khải hỏi:
– Nhưng mà có thể nói rõ hơn về kiếp trước của ông đó không?
Châu Lợi phát biểu:
– Kiếp đó của Tôn giả A-Na-Luật là một thầy thuốc đại tài, bịnh nào cũng chữa được cả. Một hôm, có một bà lão tới xin ông giúp chữa mắt, và hứa chừng nào mắt sáng sẽ trả tiền liền. Uống đâu được vài thang, mắt bà ấy hết bị mờ. Nhưng vì muốn quỵt tiền nên bà ấy nói láo rằng mắt còn yếu lắm, phải uống chừng vài thang nữa mới mạnh được. Cà-rịch cà-tàng đến mấy tháng sau, ông mới sanh nghi mà lập mưu thử bà. Sau khi chắc chắn bà ấy gạt mình để quỵt tiền chữa trị, Tâm Ma của ông trỗi dậy ngay tức khắc, ông bèn bỏ thuốc độc làm cho bà ấy uống xong bị đui luôn. Chính vì Nghiệp ác thuở xa xưa mà dẫu đã đắc thành A-La-Hán Ông vẫn phải chịu cảnh mù lòa để trả Quả Báo năm xưa.
Nhóm Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế trầm ngâm suy tư.
Châu Lợi tiếp:
– Cho nên ông nội nào lên phán kiếp trước bị vầy – kiếp này bị vậy là hoàn toàn sai trái. Họ nên về đọc lại tiểu sử của Tôn giả Mục-Kiền-Liên, để nhớ lại Ông đã từng được Đấng Thế Tôn căn đi dặn lại rằng không được sử dụng thần thông để khơi gợi tâm theo Đạo của chúng sanh hay không được tùy tiện nói cho người khác nghe về những dạng thức và cõi Sống của các “linh thể” mà Ông từng quán sát, và nhứt là chuyện tiền kiếp của bất cứ người nào mà Ông từng gặp – Ông chỉ được nói những điều đó trước mặt người khác khi nào Đấng Thế Tôn cho phép mà thôi.
JB Khải hỏi:
– Anh nghĩ sao về phép lạ?
Trì Thương nhận phần trả lời:
– Thí dụ, thí dụ này đụng chạm bên Đạo anh…
Nhóm anh em Công Giáo gật đầu chấp nhận, nhưng sắc mặt thoáng thay đổi một xíu.
– Tôi biến ra dĩa sầu riêng, anh thấy tôi có phép lạ nên ngưỡng mộ quá mà đòi theo Đạo của tôi, đó là do anh ham cái phép chớ anh đâu có thực sự coi trọng Đạo tôi. Thành ra, Tôn giả Mogallana cũng vậy, rất nhiều lần Ông đã cảm hóa người xấu bằng thần thông; nhưng Đấng Thế Tôn không hài lòng, bởi lẽ Ngài muốn người theo Đạo mình là người tin vào Tam Bảo, chứ không phải là bị cảm hóa bởi thần thông hay sùng bái phép lạ, do đó Ngài hay khuyên Tôn giả nên bớt thể hiện thần thông.
Henrico Thạnh giỡn:
– Giống hệt như tôi ham đến trường là vì ham con gái ông thầy chớ hổng phải vì ham học vậy.
Trì Thương phì cười:
– Thí dụ đó áp vô cũng được đó.
Đứng hoài cũng mỏi chân, Đoạn Trần mời mọi người trở về chỗ cũ ngồi chơi và ăn bánh – uống trà. Sẵn đang đau nhức xương khớp nên Longiuns Kiến chịu liền, vả chăng ông cũng đang hảo món chà-là khô.
Vừa an tọa xong, Longiuns Kiến vừa hỏi:
– Đầu thai như vậy có khiến mình bị loạn luân hay ăn thịt tổ tiên không các vị?
Các con của ông nín thở mà chờ coi phản ứng bên phía Tăng đoàn.
Châu Lợi mỉm miệng cười:
– Nếu như họ đầu thai thành súc vật hay một ai đó khác, thì họ đâu còn là thân nhân của anh nữa mà anh lại cho rằng mình ăn thịt tổ tiên hay loạn luân với họ? Linh hồn, theo quan điểm nhà Phật, không phải là dạng “toàn phần” ký thác vào xác khác sau mỗi lần tái sanh, mà là dạng “vô hình” khởi xướng từ Kết Sanh Thức, thành thử mỗi lần lìa bỏ xác này sang xác khác thì mối liên hệ ruột thịt giữa cái xác cũ của anh với những người mà anh đã gặp trong cái kiếp đó cũng coi như tiêu biến hết, thứ đi theo anh miên miên không dứt là những chủng tử tập hợp từ Nhân – Quả – Nghiệp – Duyên đã tạo mà thôi.
Cho nên Đấng Thế Tôn đã từng nói Ngài có rất nhiều Cha – Mẹ là vậy.
Longiuns Kiến hỏi:
– Cộng Nghiệp là sao anh?
– Tỷ như một băng đảng cướp của giết người cùng tái sanh vào một vùng đất bất ổn triền miên và thiên tai không dứt, họ sẽ cùng nhau trải qua cảm khổ do việc hợp sức làm ác ở kiếp trước và hậu duệ trong đời này của họ cũng sẽ chịu y chang vậy.
Khắc Xương hỏi:
– Có cách nào giải Nghiệp được không Thầy?
Châu Lợi nói mà mắt cứ nhìn đăm đăm về phía người tu sĩ trạc tuổi:
– Nếu có một người hiền đức đứng ra lãnh đạo họ về chuyện thay đổi nếp sống, họa may sự Cộng Nghiệp đó sẽ chuyển từ xấu thành tốt. Nhưng…
Giống như vụ một Linh mục tử vì Đạo bên anh đó… Nếu như người hiền đức xuất hiện thì những người sống trong vùng đó nên yêu thương và bảo vệ, nhược bằng không, sự Cộng Nghiệp theo hướng xấu sẽ càng xấu hơn, do ai nấy thảy đều sợ chết nên không dám đứng ra cáng đáng nữa, mà một khi buông xuôi với cái Ác – dần dà sau này ta sẽ là đồng minh với Nó luôn.
Thanh Liên hướng trọng tâm về lại chủ đề ban nãy:
– Thành ra, nếu như anh có gặp lại ông bà quá cố dưới một nhân dạng khác, thì người đó là người dưng chứ không phải ruột rà máu mủ chi sất. Chính vì thường kiến mê lầm này mà chúng sanh đã bị “đóng” con mắt thứ Ba, bởi lẽ chúng sanh đầu óc mông muội, nếu khai nhãn được thần thông thì ắt hẳn thế gian này sẽ chìm trong sự báo thù, nghi kỵ, loạn lạc và Tham – Sân – Si mất.
Ignacio Cường bật cười:
– Ừ, bây giờ tôi đang mến anh, không nói chuyện tiền kiếp, chỉ thí dụ quá khứ thôi, tỷ như tôi biết anh đã từng ăn hiếp em họ tôi thì chắc tôi sẽ thay đổi thái độ và ghét anh dữ lắm.
JB Khải hỏi:
– Đã là A-La-Hán mà vẫn có thể bị sa đọa sao anh?
Thanh Liên đáp:
– Rất khó xảy ra, nhưng hiển nhiên là có. Năm xưa Đề Đà Đạt Đa đã từng vì lòng tham đắm mà mất hết thần thông, lúc ấy ông đã ở Quả vị Dự Lưu. Tích truyện này nằm trong “Tạng Luật – Tiểu phẩm, tập 2” trang 349 đến 357.
JB Khải thắc mắc:
– Nhưng thế giới này đã có hơn nửa tỷ người, nếu chuyện đầu thai là có thiệt thì số “linh hồn” cũ đã đi đâu?
Trì Thương trả lời:
– Đấng Thế Tôn đã nói trên đời này có hơn ba ngàn thế giới, do đó rất nhiều chúng sanh ở đây sẽ chuyển kiếp ở Địa Cầu khác dựa theo Tha Lực của mình. Và đâu phải chỉ chuyển kiếp thành Người, còn năm Cõi khác nữa mà, cho nên mới gọi là Lục Đạo Luân Hồi.
Longiuns Kiến lắc đầu:
– Tôi muốn đọc một bài Kinh nói rõ ràng về vấn đề này, chứ các vị nói chung chung quá.
Đoạn Trần trả lời:
– Kinh “Nakha Sikha”. Hy vọng anh sẽ tìm thấy lời giải đáp cho khúc mắc này.
Longiuns Kiến ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao các vị không giảng luôn cho tôi hiểu?
Chân Tâm cười buồn:
– Càng nói, càng xa rời Chánh Pháp và càng sa đà vào góc nhìn của bản thân. Kinh Phật không phải để diễn thuyết, mà là để tự bản thân chứng ngộ.
Nhóm anh em Công Giáo sững người, rồi âm thầm đồng cảm, bởi lẽ bên họ cũng có những ông Cha diễn giải Kinh Thánh trật đường rày xe tăng vì ngả theo thiên kiến cá nhân hoặc muốn gây cười cho tín hữu mà chế cháo nội dung tùm lum.
Thanh Liên mỉm miệng cười:
– Theo thiển ý của tôi, người làm cho ta hiểu Đạo Phật chỉ có thể là Đấng Thế Tôn, các bậc A-La-Hán hoặc chính là bản thân ta mà thôi.
JB Khải hỏi:
– Còn chuyện bói toán thì sao?
Thanh Liên trả lời:
– Xin mời tìm đọc “Tiền thân Nakkhatta”, Kinh Tiểu Bộ, phần Bốn; “Phẩm Cát Tường”, Tăng Chi Bộ 1, Chương 3, Kinh Nikaya; “Kinh Di Giáo” do ngài Cưu-Ma-La-Thập biên soạn. Và còn nhiều kinh kệ khác mà tôi nhứt thời không nhớ ra.
Longiuns Kiến hỏi:
– Đức Phật có nói về đề tài kinh tế – chánh trị không?
Thanh Liên lại trả lời:
– Xin mời tìm đọc “Kinh Kutadantà”.
Khắc Xương hỏi:
– Tại sao chúng ta lại tương phùng?
Trì Thương đáp:
– Chính vì nguyện vọng quá lớn mà nó trở thành Tha Lực dẫn dắt chúng ta tương phùng ở một kiếp khác.
Rồi người Tăng sĩ tên Thảo kể:
– Có một tích truyện như vầy, vì quá thương yêu đứa cháu mà người bà đã tái sanh thành con gái của cháu dâu bà bạn hàng xóm. Rồi mười mấy năm sau, thể theo di nguyện của người bạn quá cố, bà hàng xóm mới xe duyên cho cháu gái và cháu trai bà bạn, mà không ngờ đứa nhỏ đó là bà bạn đầu thai vô. Đến chừng ngày cưới, một vị Phật đi khất thực ngang nhà, Ngài thấy sự ấy mới dừng lại và đọc bài kệ thức tỉnh người bà kia. Người bà, trong thân-xác-mới là cô-dâu, liền nhớ ra tiền kiếp và chứng đắc quả vị Dự Lưu ngay tức khắc, và sau đó bà đã xuống tóc đi tu luôn.
Đoạn Trần tiếp:
– Vì sự thù hận và lòng ghen ghét với Đấng Thế Tôn mà Đề Bà Đạt Đa đã lẽo đẽo đi sau lưng Ngài ấy hết kiếp này đến kiếp khác. Đáng lẽ, với những hạnh lành mà ông đã gieo ở muôn vàn kiếp trước, ông đã chứng đắc quả vị A-La-Hán từ rất lâu rồi; song, bởi không ngăn được Tâm Ma mà ông đã để nó dìm ông xuống Địa Ngục Vô-Gián.
Cho nên trong một bài Kinh Pháp Cú, Đấng Thế Tôn đã đọc, “Là tự nó, đốt nó…”
Thành thử, nếu như không muốn gặp lại người mình ghét ở kiếp sau thì ở kiếp này đừng ghét người ta nữa. Và ngược lại cũng vậy.
Chân Tâm vừa xòe bàn tay để mấy con sẻ bu lại ăn trái chà-là khô vừa bình phẩm:
– Tha Lực của mình hướng chỗ nào thì tỷ lệ mình tái sanh ở cảnh giới tương ứng càng cao.
Kiều Xuân chợt xen vô:
– Thưa các Thầy, tôi muốn biết thêm về Tôn giả Khánh-Hỷ và Bà Ma-Đăng-Già.
Thanh Liên nhận phần trả lời:
– Những kiếp xa xưa Ma Đăng Già và Tôn giả Ananda đã quấn quýt với nhau rất hạnh phúc, nên sự lưu luyến cái hạnh phúc đó đã trở thành Tha Lực dẫn dắt bà tái sanh cùng chốn với người mình yêu. Rồi cũng vì sự lưu luyến đó mà bà đã đan tâm xuống tay dụ dỗ Tôn giả phá giới. Có sách nói nhờ bài Chú Lăng Nghiêm mà Đấng Thế Tôn thị hiện thông qua Văn-Thù Bồ-Tát mà Tôn giả đã thoát được chước độc; có dị bản lại nói là do Ngài biết em họ đang gặp nạn nên đã nhờ Tôn giả Xá Lợi Phất tới giúp.
JB Khải nhướng mày:
– Vậy là ông Tôn giả đó không tự cứu mình được à?
Thanh Liên gật đầu:
– Phải. Vì lúc đó Tôn giả chưa có chứng đắc quả vị nào cao siêu hết, chỉ chứng đắc những quả vị hỗ trợ cho con đường tinh tấn tu hành mà thôi; thành thử Ông thường hay không kiềm chế được cảm xúc của mình.
Longiuns Kiến dụ dự một đỗi mới mở miệng hỏi:
– Các vị nghĩ sao về việc truyền giáo?
Lần này những người trụ cột trong Tăng đoàn để Duy Hảo trả lời. Và cậu ấy đáp rằng:
– Trước đây Phật Giáo đã từng tồn tại nhưng theo kiểu “nội bộ”, tức là ai có duyên đi tu mới được truyền trao Chánh Pháp mà thôi. Về sau, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới hoằng pháp rộng rãi khắp nơi, ai cũng được nghe Pháp hết, thành thử người ta tôn xưng Ngài là Đức Bổn Sư sáng lập Đạo Phật cũng không ngoa xíu nào.
Thanh Liên nhắc nhở:
– Còn thiếu một chi tiết rất quan trọng.
Duy Hảo chắp tay đảnh lễ Thầy Liên, rồi cười tươi mà bổ sung như sau:
– Sau khi đắc thành Chánh Quả, Đấng Thế Tôn đã định sẽ giữ nguyên cách truyền trao Chánh Pháp như các đời Phật quá khứ, vì nghĩ Pháp Phật quá khó hiểu và dễ khiến chúng sanh vì không hiểu mà mạo phạm tới nó. Nhưng vừa lúc ý niệm ấy khởi lên, Đế Thích Thiên đã cổ võ Ngài ấy nên hoằng pháp rộng rãi cho chúng sanh. Vậy là bài “Kinh Chuyển Pháp Luân” đã ra đời ngay sau đó.
Lúc này các Thầy và sư huynh của Sa-di Duy Hảo mới tạm hài lòng về phần trình bày của cậu.
Khắc Xương hỏi trong lúc mở máy kiểm tra điện thư:
– “Oan gia trái chủ” là sao Thầy?
Chân Tâm trả lời:
– Tôi sẽ không nói về ngọn nguồn, mà sẽ nói về cách hóa giải.
Người trong Đạo lẫn ngoại Đạo đều không biết rằng cách “cúng kiếng” cho người thân đã khuất của Phật Giáo ngày xưa rất khác ngày nay. Tức là thay vì đốt vàng mã, Phật tử sẽ hồi hướng hết công đức mà bản thân có được từ việc hành Thiện đến người thân đã mất; với những người đang bị thác sanh trong đau khổ hay bị đọa Địa Ngục, công đức của mình sẽ giúp họ bớt thời gian trả Nghiệp và mau chóng thác sanh vào một Cảnh Giới tốt đẹp hơn.
Cũng tương tự vậy, đối với những ai thù ghét và hãm hại mình ở kiếp này, chứ đừng nói chi là oan gia trái chủ, việc hồi hướng công đức của mình là một trong những cách để cho mình và người đó tránh việc tương phùng ở kiếp lai sinh hoặc nếu có gặp lại cũng sẽ ít gây Nghiệp với nhau hơn.
JB Khải hỏi:
– “Người thân đã khuất” tức là thân nhân nội kiếp phải không?
Thanh Liên lắc đầu:
– “Người thân đã khuất” ở đây không phải giới hạn ở kiếp này mà là ở vô hạn kiếp trước. Giống hệt như tặng quà cho cố nhân vậy.
JB Khải lại hỏi:
– Có thí dụ không?
Thanh Liên đáp:
– Kinh Pháp Cú số 320, 321 và 322.
Rồi người Tăng sĩ mi thanh mục tu ấy nhấp một ngụm trà thơm cho đỡ khan cổ.
Longiuns Kiến vừa nhón một miếng bánh lỗ tai heo vừa hỏi:
– Bên các vị có cầu nguyện không?
Duy Hảo mạn phép trả lời:
– Tụi tôi không cầu nguyện cho thế giới bình an như bên ông, mà là dành một buổi hồi hướng hết công đức mà mình có được cho thế giới này. Bên phía Theravada ngày nào cũng tổ chức Lễ này, và phía tín đồ cũng có thể làm theo tại nhà dưới hình thức suy niệm.
– “Suy niệm”? Suy niệm giống bên tôi không?
– Không. Tức là vầy, họ chỉ cần quỳ trước bàn thờ Phật hay thậm chí là ngồi hoặc đứng nghiêm chỉnh ở chỗ khác mà suy niệm rằng, “Con xin hồi hướng hết công đức từ những việc Phước Thiện mà mình đã tạo được trong ngày hôm nay, cũng như trong đời này – đời khác, tới các thế giới và các chúng sanh hữu tình hay không hữu tình, có sắc hay vô sắc.”
Longiuns Kiến hỏi trong lúc che miệng nhai:
– Hồi hướng vậy có hết công đức không?
Lần này Duy Hảo để các Thầy và sư huynh trả lời. Và người trình bày là Châu Lợi:
– Đây là luận giải theo kinh điển, tôi chỉ nói lại theo cách của mình mà thôi: “Cũng giống như mình truyền lửa cho cây đèn cầy tắt queo bên cạnh, ánh sáng của mình sẽ không lu mờ đi mà còn tăng thêm phần rực rỡ.” Do đó, việc hồi hướng hết công đức cho thế gian không những không làm mình mất sạch Công Đức, mà trái lại còn làm cho Âm Phần của mình thêm dồi dào hơn. Nhưng, có một điều kiện, là khi hồi hướng hết công đức cho thế gian, tâm của mình không được khởi lên ý nghĩ “Lại – Quả” và trục lợi; tức là tôi làm rồi đó, mơi mốt phải cho tôi hưởng thứ tốt hơn mới được. Thì coi như việc này không còn được phước báu là bao, thậm chí hóa ra công cốc luôn.
Ignacio Cường mời nêu thí dụ.
– Tôi có một hộp bánh bích quy rất ngon, nhưng vì giá nó không hề rẻ nên tôi để dành ăn nhín nhín một mình. Chừng thấy bánh sắp hết hạn do ăn không kịp và cũng vì ngán quá rồi, tôi mới đem cho bà con chung quanh nhà. Việc làm này không phải xuất phát từ Ba-La-Mật, mà là bởi tôi sợ mình mắc tội bỏ mứa nên mới cho đặng cho đùa người ta, thành thử ra chẳng còn phước báu chi sất, trái lại còn có thể phải gánh lấy Nghiệp đầu độc người khác nữa.
Cho nên đã muốn thực hành Ba-La-Mật thì phải thực hành thiệt lòng. Cho người ta đồ tốt và còn xài được chớ đừng có quăng rác mà bắt người đem bỏ giùm mình.
Longiuns Kiến cắt lời:
– Vậy sao…
Châu Lợi trả lời luôn:
– Tăng sĩ không được hưởng đồ tốt, chứ đừng nói chi là máy móc tân kỳ phục vụ cho nhu cầu giải trí cá nhân. Còn người xung quanh không phải Tăng sĩ nên được hưởng điều đó.
Đoạn Trần bổ sung:
– Không nên cho Tăng sĩ ăn uống đồ dơ bẩn – ôi thiu thôi, chứ Ngài không khuyến khích tín đồ cúng dường vật thực linh đình chi sất.
Khắc Xương bình phẩm:
– Cho nên nếu ai theo Phật mà sống theo cách “Hồi hướng công đức” như vầy thì không chỉ làm bản thân trở nên tốt đẹp hơn mà cũng giúp xã hội giàu tình người hơn.
Thanh Liên chắp tay thưa:
– Phải. Thành ra xin đừng nghĩ sống theo triết lý nhà Phật sẽ khiến con người bị buông xuôi với cuộc đời.
JB Khải đặt câu hỏi:
– Tại sao Đức Phật không khuyên người ta tha thứ mà lại nói buông bỏ?
Trì Thương trả lời:
– Vì tha thứ là anh còn cảm xúc với người đó, còn buông bỏ thì cảm xúc của anh đã bị triệt tiêu rồi.
Ngoài trời đột nhiên đổ mưa lớn. Cơn mưa thất thường mà quen thuộc trong những ngày cuối Xuân – đầu Hạ. Chỉ chưa đầy mười phút mà mưa đã tạt tới chân bàn.
– Mưa này tạnh mau lắm. Trong lúc chờ đợi, mời các vị theo tụi tôi vô sâu trong hang động mà ngắm thạch nhũ. – Đoạn Trần niềm nở mời.
Qua những ngách hang quanh co và hẹp té, rồi lại vòng qua những khe nước trong văn vắt, một hồi quẩn quẩn – quanh quanh hơn chừng nửa tiếng, mới tìm thấy cái hang động mà Đoạn Trần giới thiệu. Trước sự kinh ngạc thích thú của nhóm Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, người Tăng sĩ già chậm rãi giới thiệu về nỗi thịnh – suy của những phiến thạch nhũ đủ kích cỡ và hình dạng treo trên kia. Cách chỗ này không xa là một cái giếng trời dạng nón cụt: Mặt trên độ chừng ba mét, chiều cao ước khoảng hai chục mét và bề ngang phía dưới nhẩm cỡ bảy thước hơn; nhờ có khu vực này mà hang động được thoáng khí và bớt u tối. Màn mưa bụi rũ xuống dưới giếng tạo thành một bức tranh sương khói bảng lảng; thấy cảnh đẹp trước mắt, Longiuns Kiến bắt mấy đứa con phải chụp chung với mình mấy tấm hình kỷ niệm, Khắc Xương bèn nhận lời bấm máy giùm, chụp đâu được hơn chục bức ông Thầy Dòng mới chịu trả tự do cho xấp nhỏ.
– Rồi, tranh luận tiếp. – Longiuns Kiến vỗ vai Đoạn Trần, rồi xây qua cặp cổ Châu Lợi.
Sau một đỗi suy nghĩ, thiếu điều muốn vò đầu bứt tóc luôn, Longiuns Kiến mới đặt câu hỏi:
– Anh nghĩ sao về chuyện tìm hiểu Đạo khác và ôm khư khư chân lý Đạo mình là nhứt?
Đoạn Trần trả lời:
– Nếu suốt đời cứ ôm khư khư cái Đạo của mình mà không chịu mở hai con mắt để tìm hiểu triết lý của Đạo khác, thì suốt đời vốn liếng kiến thức của anh chỉ nằm lại ở đó. Cho nên mới có chuyện một ông Linh mục nói bên Đạo Phật có cúng vàng mã, cúng trăm ngày, múa lân, kiêng cữ ngày – giờ… Và ngược lại cũng vậy, một ông sư không biết gì về Cơ Đốc lại bắt bẻ và phỉ báng triết lý bên Đạo của mấy anh.
Châu Lợi tiếp:
– Tụi tôi đến với Phật bằng sự tự do và nếu có cải Đạo cũng bằng sự tự do. Không ai rủa xả hay lên án tôi phản Đạo, rồi nói Ma Vương cù rủ thành kẻ lạc Giáo, và thậm chí là hăm he đọa Địa Ngục tôi hết – tôi chỉ xuống dưới đó khi làm các Nghiệp Bất Thiện trong lúc còn sống mà thôi.
Longiuns Kiến cau mày:
– Có thí dụ rõ ràng hơn được không?
Châu Lợi trả lời:
– Tại thời điểm vua Tỳ-Lưu-Ly dẫn quân truy sát những người thuộc thân tộc Thích Ca và bá tánh trong thành Ca-Tỳ-La-Vệ, nhiều người đã chạy sang các xứ sở lân cận rồi cải sang Đạo khác để lẩn trốn. Chừng khi sự dữ qua rồi, họ mới trở về và chuyển lại Đạo Phật. Phần đông đều tới xin sám hối với Đấng Thế Tôn vì nghĩ rằng mình đã phạm tội phỉ báng Tam Bảo; song Ngài không những không trách mà ngược lại còn an ủi họ nữa, bởi lẽ Ngài cho rằng đó là hành động bất đắc dĩ để bảo toàn sanh mạng của mình và người khác, thành thử không bị phạm tội trên.
Longiuns Kiến vẫn không khỏi thắc mắc:
– Nhưng Ngài có khuyến khích “Tử vì Đạo” không?
Chân Tâm đáp:
– Không. Đời sau ca tụng chuyện “Tử vì Đạo”; còn Như Lai không hề hoan hỷ, chứ đừng nói chi tới chuyện tán thán sự “Tử vì Đạo”.
Longiuns Kiến gật đầu:
– Tôi hiểu rồi. Hèn chi bên anh có ít “Thánh tử vì Đạo”.
Chân Tâm chắp tay:
– Đấng Thế Tôn chỉ khuyến khích tụi tôi nên năng đọc Kinh và hành Thiền, chớ Ngài không có ép tụi tôi phải làm theo ý Ngài. Trong các bài Kinh, Ngài thường chỉ ra mặt lợi lạc nếu làm theo lời Ngài dạy và mặt bất hảo nếu không làm theo lời Ngài dạy; còn nghe theo hay cãi lại là tùy ý mình, Ngài không có bày tỏ thái độ khó chịu chi hết.
JB Khải hỏi Thanh Liên:
– Anh có thể nói về một trường hợp cuồng tín có thật được không?
– Một người theo Đạo anh nói rằng chích vaccine sẽ bị biến chứng rất nhiều, nào là hễ có vết thương thì máu tươi chảy ra không nhỏ giọt hay thành dòng mà vón cục lại trông rất ghê, rồi thì hút được kim loại, ôi thôi đủ hết. Một người bên Đạo tôi nói rằng mình chích xong thì vết thương vẫn xuất huyết như bình thường và càng không thể hút được kim loại vô người chi sất; lập tức người bên Đạo anh sửng cồ lên và nói người bên Đạo tôi là tay sai của Quỷ Satan nên đã che giấu tác hại của vaccine giùm y-ta, người bên Đạo tôi tức tới nỗi mới nói, “Hổng lẽ tôi phải cắt tay trước mặt anh thì anh mới tin tôi sao?”
Tôi không biết vaccine tốt hay xấu, nên hay không nên chích, có biến chứng hay là không; do đó tôi không muốn bàn đến.
Và rõ ràng người bên Đạo tôi chỉ nêu thắc mắc vì thực sự thì anh ta chưa hề trải qua hay gặp phải các biến chứng mà người bên Đạo anh liệt kê, chứ anh ta đâu có phải lên án luận thuyết của anh kia.
Ignacio Cường chỉ biết lắc đầu.
Longiuns Kiến chen vô hỏi:
– Còn bên Đạo các vị quan điểm thế nào về vaccine?
Thanh Liên trình bày:
– Có một cư sĩ quả quyết rằng chích vaccine xong là linh hồn bị ma quỷ trói buộc không thể đắc thành Chánh Quả được. Đây là một dạng tà kiến, vì Đạo Phật không cho rằng “linh hồn” ở dạng bản thể mà có thể bị vấy bẩn bởi tác động của y dược; “linh hồn” có thể bị vấy bẩn là do Niệm của mình, thì dụ mình ham ăn hốt uống, mình tham đắm trong các ý tà dâm,… và hết thảy đều là do mình đầu têu khởi xướng, không có vụ đổ thừa “Tại – Vì – Bị – Bởi”.
Một tiếng quạ réo ngoài kia đã thu hút sự chú ý của mọi người. Không phải quạ. Mà là một con tu hú đang giành tổ với con chèo-bẻo. Vì vẻ ngoài tương đồng với nhau nên mới có câu “Quạ nuôi Tu hú”.
– Tu không khéo dễ thành “Tu hú” lắm. Có mỗi cái mỏ là đúng Chánh Đạo, còn hành động thì không. – Thanh Liên vừa nói vừa xăng xái bước lại gần hai con chim đang hồi ác chiến nảy lửa. Y-Nhã Cường hấp tấp đi theo.
Đến nơi, Thanh Liên lượm cây khô và rơm rác mà bện thành cái tổ. Đôi tay nhung mềm của anh chỉ mất không đầy nửa tiếng là đã làm ra một cái tổ thành khoảnh. Sau một đỗi suy tính, anh quyết định đặt cái tổ tự chế lên nhánh cây da-sà. Rồi đặt hai ngón tay lên môi mà huýt sáo gọi con tu hú. Thấy có chỗ mới, con tu hú vui mừng dẫn vợ bay qua ấp trứng.
– Anh không sợ mốt tụi nó sẽ chơi trò “Ly miêu tráo Chúa” sao?
– Biết chớ. Nhưng con của bầy chèo-bẻo đã lớn khôn hết rồi, chừng một tuần nữa là chúng sẽ bỏ tổ mà đi nơi khác định cư.
– À…
Những phiến lá đa bay lả tả theo chiều gió mưa. Bốn bề nhuộm sắc xám ngắt như vẻ mặt của người bị giựt hụi. Vài ba ánh chớp lóe sáng rực-trời Tây, đem theo những tia sét vằn vện dữ tợn mà tuyệt đẹp, rồi đó sấm nổ ì đùng như đại bác oanh tạc làm nhói buốt những đôi tai khốn khổ của con người trần thế. Đôi con hoẵng – con nai hớt hải chạy rúc vô hang động tránh dông dữ, dáng điệu hiền queo tựa nàng Tiên bị mắc đọa đã khiến một người dễ nổi nóng như Đức Cường cũng phải nhoẻn miệng cười hiền queo. Thanh Liên mở tay nải để lấy những cái bánh bích-quy tẩm trứng muối mà phát cho những con thú lạc loài; Ignacio Cường bốc vài cái ăn thử, nghe đâu mẻ bánh này là do thím Huê làm, ngon lắm, nhưng vì giá hơi cao nên ít có ai mua, thành thử ai đặt nhiều thím mới nhận.
Ở trong này, ngay cạnh giếng trời sương tỏa mù khơi, Đoạn Trần cất lời tâm tình với Longiuns Kiến:
– Tôi theo Phật Giáo, tôi không hiểu và cũng chẳng biết quan điểm về ngừa thai, truyền máu, hiến nội tạng, thụ tinh nhân tạo,… bên Đạo anh ra sao, thành thử chừng nào anh nói – tôi mới đặt câu hỏi và nêu thắc mắc, còn không thì thôi. “Đạo bất đồng bất tương kiến”.
Longiuns Kiến gật gù:
– Anh nghĩ sao về “thuyết âm mưu”?
Đoạn Trần bật cười:
– Suốt ngày sống theo thuyết âm mưu cũng là tự đọa mình vào Địa ngục Vô Gián, vì đụng đâu cũng thấy bất an và ảo tưởng mình có thể làm đấng cứu thế bằng những luận thuyết mà mình sưu tầm được hay nghĩ ra.
Longiuns Kiến vỗ vai Đoạn Trần mà cười hỏi:
– Anh biết ngoài cái nạn “Giáo sĩ trị” bên tôi ra, còn có cái nạn gì không?
– Không.
– “Con cái Sự Sáng”.
Đoạn Trần mời Longiuns Kiến giải thích.
– Những người này lập ra hoặc tuyên truyền đủ thứ thuyết âm mưu và cho rằng mình đã nghe được tiếng nói của Chúa Cha và Đức Mẹ Maria, thậm chí là còn biết ai là tay sai của Quỷ Satan trên trần thế nữa. Hễ ai không tin họ là họ sẽ tỏ ra thương xót vì cho rằng người đó bị Quỷ Satan che mắt hoặc là mạ lị một cách không thương tiếc.
Châu Lợi nhếch miệng nói:
– Dấu hiệu của chứng bịnh hoang tưởng. Bên tôi cũng có nhiều người lắm, cũng tại cuồng tín mà ra.
Thanh Liên và Y-Nhã Cường đã trở về hàng ngũ. Những con hoẵng – con nai được chàng Tăng sĩ cho ăn đã về rừng, để lại những vết sình lầy mang hình cái móng của chúng. Ngoài trời mưa vẫn rỉ rả rơi, nhưng bầu trời đã quang đãng hơn một chút; trên thinh không, cầu vồng mờ ảo bắc qua một góc huyện Tri-Tôn êm đềm.
Longiuns Kiến thấy có bánh ngon nên chỉ tay xin một cái, Thanh Liên bèn đưa ông nguyên hộp. Vừa nhai bánh bích-quy, ông vừa quay qua nói với hai ông bạn già:
– Nhóm tự nhận mình là “Người được chọn” khác với những ai có lòng yêu mến Giáo Hội mà không ngại hiểm nguy đi vạch trần kẻ quấy.
Đoạn Trần đáp:
– Tôi hiểu.
JB Khải hỏi:
– Bên mấy anh có chuyện gì lạ lùng không?
Trì Thương trình bày:
– Có một cô này có một người bà con bị hàm oan gần nửa Thế Kỷ. Dòng họ cổ có bằng-chứng chứng-minh người bà con này hoàn toàn trong sạch, nhưng những người dưng thì không mấy ai tin. Lâu dần, cổ bắt đầu bị lung lay. Rồi thì tức nước vỡ bờ, cổ mới đánh liều khẩn xin Đấng Thế Tôn hiện ra trong giấc mơ của cổ nếu như người bà con này thực sự vô tội. Ngay trong đêm hôm ấy, cổ đã mơ thấy Phật Tổ Như Lai… Cổ và Ngài đang đứng trên một đồng lúa đang mùa lúa trổ đòng đòng, y phục và kiểu tóc của cổ là của phái nữ Ấn Độ cô đại. Cổ bàng hoàng ngó ra sau lưng… Và sửng sốt khi thấy tòa thành Ca-Tỳ-La-Vệ đứng sừng sững ở đó! Thì ra chỗ mà cổ và Ngài ấy đang đứng là ở khu vực ngoại thành. Lúc này đây, khi hào quang của Ngài đã dịu xuống đôi phần, cổ mới có thể nhận ra Ngài là ai. Cổ kể cổ mừng tới độ thiếu điều muốn nhào đến mà ôm chầm lấy Đấng Thế Tôn. Nhưng ánh mắt của Ngài đã làm cổ trấn tĩnh lại. Cô vừa khóc vừa hỏi có thiệt người bà con kia bị oan không. Ngài đã gật đầu và làm ấn thủ xác nhận. Lúc ấy, cổ đã bưng mặt khóc tức tưởi. Ngài không có an ủi chi sất, vẫn là ánh nhìn rũ xuống và khuôn miệng luôn mỉm môi cười. Chừng qua cơn xúc động, cổ mới đặt câu hỏi cho Ngài ấy về các Tạng Kinh và những vấn đề liên quan tới Tam Bảo; Ngài trả lời không sót một câu nào… Vậy mà cổ đã quên sạch lời Ngài giảng khi tỉnh lại, chỉ nhớ mỗi nội dung câu hỏi do bản thân nêu lên mà thôi. Cổ khoe dung mạo của Ngài trong giấc mơ là một người đàn ông trung niên Ấn Độ cực kỳ đẹp trai và có đôi mắt từ bi vô lượng, chiều cao của Ngài ấy ước khoảng hơn một mét tám, khắp người đều tỏa hào quang nhưng vòng hào quang trên đầu là chói lọi nhứt, như thể là ánh sáng Chánh Ngọ vậy, thành thử dầu ánh sáng đã dịu bớt nhưng cổ vẫn không dám ngước lên dòm lâu.
Tôi khuyên cô hãy coi đó như là một giấc mơ đẹp mà thôi, đừng đặt niềm tin hay suy diễn rằng mình đã đạt được thành tựu chi sất.
Thanh Liên tiếp lời:
– Má tôi có cho cổ coi hình chụp các nam diễn viên Ấn Độ nổi tiếng đẹp trai và hỏi cổ coi có giống ai trong số này không? Thì cổ trả lời là không.
Louis Quế hỏi:
– Đẹp hơn cả Saurabh nữa?
Thanh Liên gật đầu:
– Phải, cổ miêu tả khuôn mặt mà cổ thấy trong mơ đẹp một cách thoát tục và không dung chứa một xíu Ngũ Uẩn thế gian. Đặc biệt trên môi luôn mỉm miệng cười, nụ cười hiền từ đến mức khiến cho kẻ ác cũng phải hối cải mà quay về đường ngay.
Chân Tâm kể:
– Nhưng cũng thiệt là lạ, cổ nói cổ không nhớ câu trả lời, vậy mà cổ lại có thể trả lời được những câu hỏi mà tôi đặt ra, và những câu trả lời đó phần đông đều nằm trong những kinh điển mà cổ chưa từng đọc qua bao giờ.
Trì Thương buông xuống một kết luận trước khi dẫn nhóm Linh mục đi thưởng ngoạn những thắng cảnh khác ở Phụng Hoàng Sơn:
– Giấc mơ về đức tin hằng hữu có thể cứu vớt một người, nhưng cũng có thể khiến người đó sa đọa trong bể Vô Minh. Thành thử ra, dù mộng thấy cái chi cũng đừng nên mù quáng tin hay tự huyễn hoặc bản thân là “Người được chọn” và đã có thành tựu trên con đường tu hành.
Longiuns Kiến hỏi Đoạn Trần và Châu Lợi:
– Hai anh nghĩ sao về một nguyên thủ quốc gia?
Đoạn Trần trả lời:
– Lấy thí dụ như Tổng thống Đài-Loan Thái Anh Văn, bà là người theo Đạo Phật nhưng tôi chưa hề thấy hay nghe tin bà thể hiện sự quan tâm hoặc ủng hộ nhiệt liệt Đạo Phật. Đó là một suy nghĩ hết sức đúng đắn của bà theo nhận định của tôi, bởi lẽ anh theo Đạo nào thì hãy cố gắng đừng làm cho người khác có suy nghĩ hoặc có thể dựng chuyện rằng anh thiên vị Đạo anh. Đó là một trong những cách giữ vững địa vị của anh trên chánh trường. Không nên để lộ cái cớ khiến cho kẻ thù của anh đẩy anh vấp phạm.
Trong lịch sử Phật Giáo có Đại Đế A-Dục, mặc dù rất sùng Đạo nhưng Ông luôn kính trọng các đức tin khác, thậm chí là cung kính hành lễ với các chức sắc đang lãnh đạo đức tin đó. Thành ra, thuở Ông còn trị vì các đức tin được xích lại gần nhau và không bị ai khơi mào Thánh chiến.
Longiuns Kiến đã hiểu ý của Đoạn Trần.
JB Khải hỏi:
– Vậy tại sao tới đời con của ổng lại không giữ được cơ đồ?
Đoạn Trần trả lời:
– Vì họ bất tài và có thể đã chia rẽ lẫn nhau để giành ngôi báu. Ngoài ra, một số thì đã xuất gia đi tu và xa lánh cõi hồng trần nên không còn bận tâm đến những thứ đó nữa.
Louis Quế bật cười:
– Giống như mấy ông tỷ phú giàu nứt đố đổ vách mà con cái ăn chơi lêu lổng vậy. Hình như bao nhiêu tinh hoa thì cha hưởng – còn tạp lậu thì con gánh hết.
Châu Lợi tiếp:
– Nếu bây giờ anh làm tổng thống, trong nước anh có nhiều tôn giáo có đội quân thiện chiến và sẵn sàng vị quốc vong thân, anh sẽ liên minh với họ hay tìm cách hạ bệ họ và đề bạt đức tin chỉ riêng Đạo anh?
Longiuns Kiến trả lời:
– Đương nhiên liên minh rồi. Và tôi hiểu lời anh rồi. Nhưng tôi có chuyện muốn hỏi, hai chữ “Hy sinh” trong Phật Giáo là như thế nào?
Thanh Liên nhận phần trả lời:
– Bên Phật Giáo có một câu chuyện như vầy: Tiền kiếp đó Đấng Thế Tôn là một vị hoàng tử tu hạnh Bồ-Tát, xin nhấn mạnh là đang tu hạnh Bồ-Tát chứ không phải đã thành Bồ-Tát. Rõ rồi phải không? Rõ tôi thì tôi sẽ nói tiếp. Một bữa chàng đang đi dạo trong rừng với hoàng huynh thì bất chợt nghe thấy tiếng thú hoang rên rỉ. Chàng và người anh bèn men lại. Ở dưới cái hố có một con cọp cái mới sanh rất yếu vì kiệt sức và đói khát, mấy con cọp con nằm đó cũng thoi thóp sắp chết theo. Người anh của chàng chỉ tặc lưỡi một cái, rồi bỏ chuyện này ra sau đầu; nhưng chàng thì không. Gần tới bìa rừng, chàng hốt nhiên la lên mà nói mình làm rớt đồ quý nên phải quay lại tìm. Người anh đòi đi kiếm chung song chàng kiên quyết từ chối và đuổi về. Người anh mặc dầu sanh nghi, nhưng đành về cung một mình. Đợi người anh đi khuất rồi, chàng mới quay trở lại cái hố ban nãy và rút kiếm ra tự sát để bầy cọp đó được sống…
Nhóm Linh mục Công Giáo bàng hoàng ngó chàng Tăng sĩ đẹp phi phái-tính.
Thanh Liên nói mà ánh mắt đã đẫm lệ:
– Câu chuyện trên có ý nghĩa khi chúng ta chấp nhận tự sát hay hy sinh để cứu đời thì chúng ta không được để người khác bị liên lụy và mắc phải cái Nghiệp giết người một cách gián-tiếp. Thành ra, Ngài đã phải nói láo để dụ hoàng huynh đi ra khỏi đó.
Louis Quế hỏi:
– Mấy con cọp đó thì sao?
– Ban đầu, khi thấy chàng nhảy xuống cái hố để tự làm gãy chân mình hòng giúp chúng ăn thịt dễ hơn, con cọp cái đã lắc đầu từ chối. Chừng thấy chàng rút kiếm đâm vào ngực mình tới chết, con cọp cái thấy chàng đã hoàn toàn tắt thở rồi mới khóc mà kêu mấy đứa con lại ăn thịt. Tới khi các huynh đệ của chàng dẫn quân binh đi tìm chàng thì chàng chỉ còn là bộ xương trắng phếu…
Trì Thương kể với giọng buồn-buồn, buồn thật buồn:
– Chắc có lẽ bắt đầu từ những năm 1900 tới nay mới có những vụ Tăng – Ni biểu tình. Cái hồi Hồi-Giáo và Ấn-Giáo triệt Phật-Giáo ở Ấn Độ cổ-đại, những Tăng – Ni và tín đồ chỉ biết di dân lẩn trốn mà thôi; nên dần-dà Phật Giáo mới thoái trào tại xứ Thiên-Trúc.
Longiuns Kiến hỏi:
– Vậy ra những người đó đã làm sai di nguyện của Như Lai?
Trì Thương đáp:
– Phải.
Rồi chàng ta trầm giọng kể:
– Bên ông có tích “Đừng sợ…”, bên tụi tôi cũng vậy. Lúc Đấng Thế Tôn sắp Niết-Bàn, Tôn giả Ananda đã không chịu vào thăm Ngài mà kiếm một góc đứng khóc miết. Dù rằng đã biết thị giả của mình đang ở đâu, Ngài vẫn hỏi một Tăng sĩ khác để thử coi người đó nói gì. Và quả tình như những gì Ngài nghĩ, người Tăng sĩ ấy nói rằng hay tin Thầy sắp ra đi nên Trưởng lão vì quá đau buồn mà không muốn vô đây. Ngài mới dạy vị Tỳ-Kheo đó ra nói với Tôn giả rằng vô đây gặp Ngài, Ngài có chuyện muốn dặn dò Tôn giả. Chừng Tôn giả bước vô, Ngài đã nói với Ông rằng đừng sợ, dẫu Ta có ra đi thì Chánh Pháp của Ta cũng không bị tiêu biến; và thay vì quỵ lụy trước sự Niết-Bàn của Ngài thì Ngài mong Tăng chúng hãy mau tu tập để sớm ngày đắc thành Chánh Quả. Lời Ngài nói còn dài lắm, tôi chỉ tóm lược hai ý dựa trên trí nhớ ít ỏi của mình mà thôi.
Longiuns Kiến đáp lễ bằng tích truyện “Đừng sợ…” bên mình. Đây là lần đầu tiên xấp nhỏ mặc áo chùng thâm được nghe ông Thầy Dòng giảng Đạo. Sự phân tích khéo léo và không xài những thuật ngữ quá phô trương trong lời kể ấy đã giúp nhóm Tăng sĩ hiểu thêm được sự nhiệm mầu Cơ-Đốc và ơn Thiên Triệu của Đức Jesus Christ.
Hè về nên chốn núi rừng Cô Tô ve sầu kêu râm ran khắp nẻo. Những loài côn trùng và bò sát ưa nóng đã vào mùa sinh sản, đi đứng không cẩn thận dễ bị để lại sẹo lắm. Dọc theo những con đường đã được phát quang là những đóa hoa dại chen lộn với cỏ hoang, lẩn trong đám cỏ hoa là những cây thuốc quý hiếm – không cần bàn tay chăm bẵm của ai hết mà cây nào cây nấy tốt tươi quá chừng. Thỉnh thoảng, đoàn người phải ngừng bước để nhường đường cho xe chạy; những lúc ấy, họ sẽ bước vô bãi cỏ và đứng đó im lặng chờ xe qua. Biết sức khỏe của Longiuns Kiến không mạnh nên Tăng đoàn hay mời ông và mấy đứa con của ông ra gành nước hoặc lại gốc đại thụ mà ngồi nghỉ chân, sẵn ngắm quanh cảnh núi rừng Thất Sơn hùng vĩ luôn. Mưa không còn nặng hạt như ban nãy, nhưng cũng rất phiền, vì cứ tạnh được một chút rồi lại rắc qua một cái, khiến con đường vốn đã khó đi lại càng thêm trơn trợt.
Chỉ còn cách tịnh thất chừng một trăm mét, bỗng ở sân trước vang lên tiếng kèn xe hơi inh ỏi: Một chiếc xe “Maserati – Levante” bảy chỗ màu ngọc trai mới cắt chỉ đang đậu dưới bóng cây bồ-đề đại thụ. Áng độ mười phút sau, một chiếc xe cũng bảy chỗ nhưng mang hiệu “Dodge – Durango” màu đen tuyền trờ tới. Nhóm tu sĩ rất mực hiếu kỳ danh tính của những người ngồi trên hai chiếc xe sang kia.
Chú Thương ân cần dìu mợ Hai xuống xe. Tuổi tác một ngày cao nên sức khỏe của mợ ngày càng giảm, chính vì lẽ đó mà mợ Hai mới ráng thu xếp công việc để lên đây thăm thằng Út, được lúc nào thì hay lúc nấy vậy.
– Còn phòng cho má và anh Hai không Út?
Trần Mộc Thảo chắp tay mà thưa rằng, “Còn, má.”
Vẻ ngoài của La Yến Thanh đã khiến Longiuns Kiến bực mình. Cậu này theo Chúa mà lại bấm lỗ tai, xăm hình và… giống con gái hơn con trai.
Có vẻ đã quá quen với sự đánh giá bằng mắt của mọi người nên La Yến Thanh không mảy may để tâm. Anh giúp mấy đứa em lấy hành lý rồi nhỏ nhẹ mạn phép dắt xấp nhỏ đi kiếm homestay đã đặt trước. Không có ai trong nhóm anh em Công Giáo giữ anh lại hết, kể cả Phước Thạnh và Huỳnh Quới.
Đợi nhóm của hai chàng Út đi khuất rồi, Longiuns Kiến mới xây qua hỏi Tăng đoàn:
– Bên Ấn Giáo nghĩ sao về LGBT?
Thanh Liên đáp:
– Thể theo lời một người đồng tính nam là tín đồ Ấn Giáo thì Đạo của anh ta không có thành kiến với LGBT. Vả chăng, theo thiển ý của tôi, thì kinh sách Ấn Giáo không có đả kích chuyện này; bởi lẽ phần đông các Nam Thần đều có một hoặc nhiều biến thân là Nữ hoặc về bản thể mang nhiều tánh nữ, thí dụ như Thần Mặt Trăng – Chandra chẳng hạn. Thậm chí giữa Chúa Shiva và Chúa Vishnu còn có vài đứa con chung nữa.
– Trời ơi! – Longiuns Kiến thảng thốt kêu lên.
Thanh Liên tiếp:
– Và cả chuyện Thần Lửa mang thai con của Chúa Shiva vì lỡ nuốt tinh dịch của Ngài ấy nữa. Sau đó thì mầm mống của Ngài Mahadev đã truyền xuống trần thế, những người phụ nữ được chọn đã thay Thần Lửa mang bầu; đương nhiên, chồng của những người phụ nữ đó đã đuổi họ ra khỏi nhà vì nghĩ họ đã lang chạ bất chánh mà cấn thai. Về sau, những đứa trẻ đó đã trở thành Dũng Sĩ diệt Quỷ…
– Thôi đừng kể nữa. Nhiêu đó đủ lên tăng-xông rồi. – Longiuns Kiến đứng vịn gốc cây bồ-đề đại thụ mà ôm ngực thở dốc. Bầy con của ông giáo già dòm cha mà bụm miệng cười nắc nẻ.
Xấp nhỏ mà mợ Hai nhận giám hộ sẽ tới ngôi nhà sàn mới cất của ông Sáu Diên mà ở tạm. Căn này ông định cho khách du lịch mướn, nhưng vì chưa bày trí xong nên còn để trống. Biết ông không dư dả mấy nên mợ Hai nói sẽ trả tiền theo đầu người, tức là có bấy nhiêu đứa thì sẽ trả bấy nhiêu tiền. Hải Lam thấy mình là con gái nên vùng vằng không chịu ở chung với quá trời con trai, vậy là Quế Trân mời nó tới ở chung với mình, bà Ái Liên và con bồ, nó đồng ý ngay tắp lự.
Hai Thương và Út Thương ở chung phòng với Khắc Xương. Tuy hơi chật một chút nhưng mà vui, vả chăng Kim Thương không thích nói chuyện nhiều với Vệ Thương nên sẽ mượn Khắc Xương làm vật thế thân cho mình; không phải anh ghét gì nó, mà là bởi khoảng cách tuổi tác đã khiến anh không hứng thú mở lòng với nó mà thôi.
Stephen Đoàn bỏ ra sườn núi ngồi ngoạn cảnh một mình. Ban nãy anh có gặp Kiều Xuân, nhưng nàng không hỏi anh đi đâu và chỉ cúi mặt đi một hơi về phòng. Có lẽ anh đã hiểu được một điều mà anh không muốn tin để hiểu, đó là ba anh chưa từng thương mẹ anh, chẳng qua bên ngoại có của ăn – của để nên ông ta mới xáp lại mà thôi; thành thử trước cái chết của mẹ anh và số phận của anh, ông ta dửng dưng như không. Hoàng hôn đã cập bến Cô Tô, sắc ráng chiều ôm chầm tầng mây dày mà xốp nơi thinh không; những vạt mây ở ngoài rìa chỉ trơ trọi một màu cam đậm nên trông kém sắc hơn cả. Mải ngắm mây trời đổi xiêm y liên lũy, chàng Linh mục xấu ma chê quỷ hờn nào biết nào hay đang có người lén theo dõi anh, và người này đã bị một người trong nhóm Tăng sĩ theo dõi lại; “Châu chấu bắt Ve, Chim sẻ phía sau, nhưng không ngờ còn Trang Tử nữa.”
Dẫu chưa quen biết với nhóm Công Giáo, cư sĩ Cao Đài và hai nàng “dà quê” nhưng mợ Hai vẫn đối xử thâm tình với họ như người trong gia đình. Bà hết mời họ ăn cái này, lại nài họ nếm thử cái kia. Chưa đầy một tiếng mà mấy bịch đồ ăn bà đem theo đã chỉ còn hơn phân nửa một xíu.
Ignacio Cường đang xắt chả quế ăn thêm, chợt nghe nhạc chuông Viber vang lên, anh gác con dao lên dĩa rồi với tay lấy chai gel rửa tay, xong xuôi hết thảy mới bật máy lên coi.
– Ai gọi cho tôi đó?
– Cha Cường hả? Tôi nè. Phó Chủ tịch Hội Đồng Mục Vụ nè. Nhớ chưa nè?
– Rồi, đừng có nè nữa. Kiếm tôi có chuyện chi không?
Albert Tỷ nói muốn nói chuyện với cả Thầy Sáu nên Ignacio Cường bèn kết nối cuộc gọi với Laptop. Ông Cha Cọp đặt cái Chrome Book lên chiếc bàn đá đặt dưới gốc cây xoài ở sau hè. Dù tín hiệu Wi-fi của cái máy phát, do ông mập bỏ tiền mua, rất mạnh nhưng anh biết anh ta không muốn cho xài chung nên không hỏi mượn. Cái nghề luật sư đã khiến Khắc Xương luôn đề cao sự bảo mật cho dữ liệu máy móc cá nhân của mình.
Louis Quế vẫy tay chào ông Hội Phó với một nụ cười cho có với người.
– Cha Cường, Thầy Quới… Còn Cha Mỹ đâu?
Ignacio Cường day mặt nhìn xa xăm mà nói với giọng điệu gằn xuống từng chữ:
– Đi đâu mất tiêu rồi.
Y-Nhã Cường bắt gặp ông Sáu Tửng đang ra dấu với ông Hội Phó. Anh nở nụ cười tươi như con cọp đói thấy con mồi mà hỏi hai người tính giấu tôi chuyện gì vậy hả.
Louis Quế quýnh quáng thanh minh:
– Dạ, đâu có, đâu có đâu Cha.
Albert Tỷ cười giả lả rồi thuận nước đẩy thuyền đi xa:
– Hai Cha quay về quản xứ được không?
– Được.
– Còn cô kia đâu rồi?
Louis Quế cắt ngang:
– Sao tự nhiên tha thứ ngang xương vậy?
Albert Tỷ cười khổ:
– Hổng có ưng người nào hết. Chưa gì hết mà đã đòi xây lại cái nhà thờ của Cha Trung rồi. À… nhắc mới nhớ…
Ignacio Cường nghiêm giọng hỏi:
– Vụ gì?
Albert Tỷ:
– Lợi dụng lúc Cha đi vắng, cái ông nội chủ đầu tư hồi nẵm hồi năm kéo thằng khứa quản lý nhà đất lại mà đòi nhượng một phần Giáo xứ cho chả… Cũng may, vắng “Báo Tử Đầu” Lâm Xung thì còn “Song-Tiên” Hô Diên Chước, Hô Diên Chước không cần song tiên vẫn đẩy lui được quân cướp đất…
Ignacio Cường niết cằm tư lự. Một đỗi sau, anh mới nhíu mày mà rằng:
– Thẩy về rồi…
Louis Quế ngạc nhiên hỏi:
– Thẩy là ai?
– “Song-Tiên” Hô Diên Chước.
Albert Tỷ gật gù:
– Dạ, về rồi.
Đôi mắt của Ignacio Cường rực sáng:
– Kỳ này, mà còn quậy nữa, “Ngọc Kỳ Lân” Lư Tuấn Nghĩa cũng sẽ tới luôn.
– Thầy đó mà xuống chắc…
– Hổm rày Giáo xứ chuẩn bị cho mùa Phục Sinh sao rồi chú Tỷ?
– Đẹp lắm Cha! Nhờ có cậu Judas… tài trợ mà nguyên cái Giáo xứ y như cái Cung đình Huế.
Ignacio Cường vừa mắc cười vừa bực nên nói xẵng:
– Sao không ráng làm giống Vatican luôn đi?
Louis Quế nói trong miệng:
– Sợ ông nhai đầu nên đâu ai dám làm quá.
– Tôi nghe hết rồi đó. – Ignacio Cường vỗ vai ông Thầy Sáu đầy thâm tình.
Louis Quế cười mơn:
– Vậy hen?
Chú Thương bưng ra một mâm đựng hai ly tẩy và hai lon nước tăng lực hiệu “Red Bull – Dig Apple”. Đặt xuống bàn xong xuôi, đứng thẳng người lên đàng hoàng, anh mới khoanh tay hỏi Y-Nhã Cường:
– Mặt mày sao thấy ghê vậy anh?
Y-Nhã Cường nhếch môi đáp:
– Bị truy sát bằng cách chém hội đồng.
Chú Thương bật cười hỏi:
– Vậy Hội Đồng đó chết chưa?
Y-Nhã Cường vừa kéo cái ống hút lên vừa cười nửa miệng:
– Ổng thì chưa chết, còn tôi thì ngoắc ngoải rồi.
– Muốn trả thù không? Tôi tính giá “hữu nghị” cho.
– Sao anh có thể là anh Hai cùng trứng với Trì Thương được vậy?
Chú Thương lắc, lắc đầu. Nụ cười vẫn giữ nguyên trên khuôn miệng chữ Tứ.
Louis Quế hỏi chú Thương:
– Sao em trai cậu lại có pháp danh là “Trì Thương” vậy?
Sau khi được chú Thương kể lại đầu đuôi sự việc, hai Giáo sĩ Công Giáo chỉ biết lắc đầu thở dài. Sáu Quới khẽ khàng bộc bạch:
– Vậy ra… cẩu cũng có “Ơn gọi” đó chớ?
Chú Thương bật cười, nhưng nét cười không còn tươi như lúc đầu nữa:
– Tôi không nghĩ đó là ơn gọi, tôi coi đó là một sự thỏa thuận ngầm.
Mợ Hai có việc cần nên chú Thương xin phép tạm ngừng buổi nói chuyện để vô phụ má.
Ignacio Cường sẵn đó đi kiếm Kiều Xuân. Miễn rằng Stephen Đoàn không ở cạnh cô kia thì anh ta muốn đi đâu thì đi, anh không quản mà cũng chẳng cản.
Kiều Xuân đang làm sâm từ lá rau má với Quế Trân. Ngọc Mỹ không có ở đây, cũng không có ở trong căn phòng nào của tịnh thất. Ignacio Cường thở ra một hơi nhẹ nhõm, rồi mau chóng chạy đi kiếm người bạn đồng quản xứ. Ảnh ở trong rừng chăng? Hay là đã xuống núi mất rồi?
Trời đã xẩm tối. Những vì sao đến sớm đã le lói trên nền trời thiên thanh sáng trong như ngọc bích. Mảnh trăng khuyết mỏng như phiến lá nằm xiên-xiên nơi góc trời đằng Đông, nó yếu ớt tới mức có cảm tưởng chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua là trăng sẽ rụng xuống cầu. Những thửa ruộng đang mùa lúa trổ không còn sắc vàng óng ả giống ban sáng, thay vào đó là gam màu vàng sẫm đầy tính chiêm nghiệm và u trầm. Đèn điện chỗ có – chỗ không, nhưng đèn xe chỗ nào cũng thấy, nhờ vậy mà khung cảnh không quá tối tăm và tù túng.
“Ngày đó có Em đi nhẹ vào đời…”
Tiếng hát của Duy Trác trong bài “Ngày đó chúng mình” của nhạc sĩ Phạm Duy đã giúp Ignacio Cường tìm ra Stephen Đoàn.
– Khóc nữa đi… Mệt quá!
Stephen Đoàn đang gục mặt vào đầu gối, nghe vậy ngửng lên nhìn Ignacio Cường.
Thấy đôi mắt ông Cha Phó ráo hoảnh, lại hơi cụp như vừa mới ngủ dậy, Ignacio Cường vỗ vai thằng bạn chiến hữu mà rằng:
– Khát nước hôn? Tôi có làm cho anh một bịch nước tăng lực nè. “Red Bull”, loại thường, không thêm hương liệu chi sất.
– Cảm ơn anh… Ngồi nghe nhạc một hồi ngủ quên luôn…
Trước lúc uống nước, Stephen Đoàn làm dấu Thánh.
– Vừa nãy ông Hội Phó gọi điện hỏi thăm hai mình chừng nào trở về xứ.
– Ba ngày nữa. Rạng sáng ngày thứ tư chắc sẽ có mặt ở trên.
– Có yêu Xuân không?
– … Có…
– Quyết định đoạn tuyệt phải không?
– Phải.
Ignacio Cường ngó trước nhìn sau một đỗi mới yên tâm an tọa. Thanh Liên dặn đang mùa rắn sanh sôi nên hang ổ nhiều lắm, không cẩn thận bị cắn là coi chừng hết cứu.
– Giáo xứ lại bị quân cướp lộng hành nữa rồi. – Ignacio Cường vừa nói vừa bứt mấy cọng cỏ đuôi gà.
Stephen Đoàn tái mặt hỏi:
– Rồi ai cứu?
– “Song Tiên” Hô Chiên Tước.
– Thẩy về rồi?
– Ừ, sau một thời gian bị đày đi biệt xứ thì Thẩy về rồi. Có lẽ Cha Hoàn thấy không đặng nên đã truyền tin cho Thẩy biết để Thẩy tới dẹp loạn.
Stephen Đoàn khóc không ra nước mắt:
– Mai mốt “Ngọc Kỳ Lân” Lư Tuấn Nghĩa mà cũng xuất hiện thì coi như cái Giáo xứ thành Thủy Bạc Lương Sơn.
Ignacio Cường nhún vai:
– Cho nên tụi mình phải về.
Ngồi bàn bạc chuyện xóm Đạo hơn nửa tiếng nữa, Vệ Thương tới để mời hai chàng Linh mục đi ăn tối với mọi người. Tối nay mọi người ăn uống ở một quán ăn gia đình trong vùng núi Sam. Họ chọn tiệm này một phần vì ai cũng khen ngon, phần nữa là bởi diện tích rộng rãi và có bãi giữ-xe riêng.
Trước lúc lên xe đi ăn, mợ Hai bóp cánh tay của thằng Út mà cưng nựng hỏi:
– Mơi má nấu nui cho con ăn nghen Thảo?
– Dạ.
Longiuns Kiến là người cầm lái, ngồi cùng băng với ông là Quý Sinh. Băng nhì có hai cái ghế đơn: Bên trái là của ông Sáu Diên và bên phải là của Louis Quế. Băng thứ ba là của Vệ Thương và Yến Thanh. Băng thứ tư bên trái là là của Ignacio Cường và Stephen Đoàn, còn băng bên phải là của JB Khải và Henrico Thạnh. Băng thứ năm bên trái là của Kim Thương và Hoàng Huy, còn bên phải là của Huy Tường và Vệ Giản. Băng thứ sáu bên trái là của Kim Sơn và Bảo Thạch, còn bên phải là của Hải Lam. Băng thứ bảy bên trái là của Khắc Xương, còn bên phải là của Quế Trân và Kiều Xuân. Và băng chót là của thím Huê, bà Ái Liên và mợ Hai. Do có thêm nhiều người nên họ phải đi mướn xe khác, chiếc ấy hiệu “Hyundai – County Limousine” 29 chỗ, đồng thời trả luôn chiếc xe đã mướn; ngó thấy xe cũ không chỉ được chà rửa sạch trơn thơm phức – bóng loáng mà còn bơm nhiên liệu đầy bình, thay luôn nhớt mới và châm đủ nước mát, ông chủ cười đến nỗi hai mắt híp hịp. Đáng ra họ đã chọn chiếc xe “Toyota – Coaster Minibus” 29 chỗ, nhưng vì số ghế “cố định” chỉ vừa vặn 22 nên họ đành thôi (tức là 7 chỗ còn lại là ghế rời, muốn ngồi phải kê choáng luôn lối đi do đó hết sức bất tiện và không an toàn). Xét ra, xe Toyota có kiểu dáng đẹp hơn xe Hyundai rất nhiều, và xe Hyundai dù dòng xe cỡ lớn nào cũng vẫn bị nhược điểm là ghế ngồi khá nhỏ; hiện nay xe Hyundai đã thêm sự lựa chọn ghế ngồi theo quy chuẩn kích thước Châu Âu cho khách hàng, đó là một sách lược rất đúng đắn của hãng này.
Vệ Thương xin phép đài thọ bữa ăn.
Bà Ái Liên chịu liền. Hổm rày ra tiền quá rồi, bữa nay phải đùn qua người khác mới được.
– Hai má con thím tánh khí y chang nhau. Thẳng tưng. – Henrico Thạnh bật cười.
– Ờ, giọt máu của thím mà con.
Dù kỵ mùi mắm và ngũ vị hương nhưng Út Thương không nói ra. Thành thử cậu mới để mọi người gọi lẩu mắm – bông súng và những món ăn nặng mùi khác. Về phần mình, cậu kêu riêng một dĩa cơm cháy ăn kèm với sườn xào chua cay, rau muống luộc và gỏi ốc vòi voi; còn thằng bạn làm nghề cầm đầu thiên hạ cũng gọi một dĩa cơm cháy nhưng ăn kèm với ếch chiên bơ, tôm càng kho tàu và gỏi sầu-đâu; hai đứa ăn chung món bò leo-núi và răng-mực nướng sa-tế.
Mợ Hai cuốn cho Yến Thanh ba cuốn bánh tráng trong có thịt cá-lóc nướng trui, rau sống, bún tươi, khế chua, chuối chát, mỡ hành và đậu phộng; không quên đưa luôn chén mắm nêm bằm khóm với ớt hiểm.
– Ăn đi con gái.
Dù biết tánh hướng của Yến Thanh nhưng ngoại trừ Stephen Đoàn và Henrico Thạnh ra, những người còn lại trong nhóm Linh mục nghe xong thảy đều bày tỏ sắc mặt “đặc sắc” khôn cùng.
Longiuns Kiến hỏi Yến Thanh:
– Cậu đây làm nghề gì?
– Dạ, con là thợ hớt tóc, thưa Cha.
– Sống được không?
– Dạ cũng tàm tạm. Nhưng độ rày tiền điện tăng quá nên không còn lời lóm được bao nhiêu.
– Mai cắt thử cho tôi với mấy đứa con nhen? Tôi trả tiền đàng hoàng, không cho cắt miễn phí đâu.
Sau bữa cơm, nguyên đoàn rủ nhau tản bộ lên núi Sam.
Núi Sam ban ngày hay ban đêm đều đông khách thập phương; không như Phụng Hoàng Sơn thời nào – khắc nào đều cô liêu và tịch mịch. Đi một hồi, mọi người tách ra lúc nào không hay; Kiều Xuân lại băng đá ngồi nghỉ chân, Ông Trời mưa – nắng thất thường đã khiến nàng bị cảm lạnh, bây giờ chỉ ước có viên thuốc uống mà thôi.
– Xuân.
Stephen Đoàn bặm môi nhìn mối tình đầu.
– Dạ?
– Sao mặt mày tái xanh vậy?
– Em… bị trúng gió.
Stephen Đoàn lấy vỉ thuốc cất ở túi áo trong mà đưa cho nàng.
Đôi mắt Kiều Xuân ươn ướt. Nàng nhận lấy vỉ thuốc mà không quên phứt hai tiếng cảm ơn. Ngay khi nàng định đưa lên miệng uống, tay chàng đã cầm lấy tay nàng cản lại.
– Sao không tách thuốc ra hả Xuân?
Bấy giờ Kiều Xuân mới nhớ ra nàng chưa tách thuốc ra khỏi vỉ. Tay chàng đã buông xuống từ lâu, hơi ấm ban nãy cũng đã bị “Gió núi – Mưa rừng” xóa tan hết.
– Xuân lạt miệng không?
Kiều Xuân gật đầu.
– Tôi có mua một gói đậu phộng ngào đường, Xuân ăn đỡ nghen?
Kiều Xuân cũng chỉ biết gật đầu.
Ăn đâu được vài miếng đậu phộng, Kiều Xuân nói:
– Có lẽ em biết được vài điều liên quan tới đất đai ở Giáo xứ của anh…
Nhờ có Kiều Xuân mà Stephen Đoàn mới biết lai lịch của cái người bằng mọi giá phải lấy cho bằng được đất của xóm Đạo. Phen này anh, Đức Cường và chú Quới cùng bà con phải chống lại một gia tộc trong Bộ Quốc Phòng.
– Mỹ!
Sẵn có Đức Cường, Ngọc Mỹ nhờ Kiều Xuân nói lại cho bạn anh biết cảnh huống mà họ đang gặp phải nguy hiểm ra sao.
Song Y-Nhã Cường lại cười khẩy, tỏ ý không ngán đứa nào hết.
– Tôi nói thiệt, hai anh phải coi chừng đó. Đất Quận Nhứt là đất kim cương, mà Giáo xứ của anh lại nằm ở khu vực đắc địa nữa, không cẩn thận…
Ignacio Cường khoát tay:
– Cô khỏi lo. Có gì đấu không lại thì tôi “Tử vì Đạo” thôi. Mà có tử cũng tử một mình, không lôi theo ai đâu.
Nhác thấy đã gần chín giờ tối, Ignacio Cường bèn gởi tin nhắn tập hợp những người kia lại.
Trước lúc trở về bãi giữ xe, Ignacio Cường đếm lại quân số rồi cau mày hỏi:
– Yến Thanh và Vệ Thương đâu?
Chú Thương trả lời:
– Nghe đâu có hẹn với bạn nên đã đón taxi đi từ một tiếng trước rồi.
– À…
Anh Hai Nghĩa xuống đây để mua cho vợ nhà mấy buồng thốt-nốt. Đi cùng anh là anh Năm Tường và anh Kiến Hữu. Chiếc xe mà họ sử dụng vẫn là “Toyota – Highlander”, đến nay anh Năm vẫn chưa trả góp xong.
Y theo lời hẹn trong tin nhắn, Yến Thanh và Vệ Thương tới quán cà-phê đã định ở Châu Đốc để giao thốt-nốt và những món đặc sản An Giang khác. Trong lúc chờ đợi, hai người bạn cách tuổi kêu nước trước: Út Thanh uống trà sữa bạc hà bỏ thêm đồ-bổi, còn Vệ Thương thì uống cà-phê sữa đá ít ngọt.
Chiếc xe Toyota vừa cập bến thì tiếng hát của Hùng Cường trong bài “Cánh hoa chiều mưa” do nhạc sĩ Song Ngọc sáng tác cũng chấm dứt. Do con lộ khá nhỏ nên không có chỗ đậu xe, thành ra sau khi đi nhờ nhà vệ sinh và mua mấy ly nước xong, nguyên nhóm lên xe tới nơi khác nói chuyện. Địa điểm mà nguyên nhóm chọn nằm dưới chân núi, đây là nơi
Vừa lắc-lắc ly cà-phê cho thấm đá mau lạnh, Micae Nghĩa vừa nhắc nhở hai đứa em:
– Nguyễn Trung Tín vẫn còn đang trong diện tình nghi nên hai đứa ăn nói cẩn thận chút.
Út Thương tròn mắt hỏi:
– Cái cậu đó bị câm mà anh Hai?
– Biết là câm thật. Nhưng hai bàn tay, hai con mắt và hai cái lỗ tai còn nguyên-xi mà.
Tiếng lục bao nylon để tìm cái bánh bò đường thốt-nốt trong mớ bánh trái làm Yến Thanh ngạc nhiên quay xuống băng chót. Bắt gặp ánh mắt của Kiến Hữu, anh ngượng ngùng day mặt lại rồi giả vờ quậy ly trà sữa.
– Nè, đân một cái béng đi “cụ”.
Yến Thanh nhỏ nhẹ cảm ơn, rồi lẹ tay lột lớp lá chuối bao lấy cái bánh.
– Ô, con trai chi mà giống “Tôn Nữ còn buồn” rứa tề?
– Tôi đồng tính, thưa ôn.
Út Thương ngửi ngửi cho quen mùi một xíu rồi mới cắn một miếng nhỏ. Bánh này dẻo, hơi ngọt nhưng vị lại thanh vì xài đường thốt-nốt, với một đứa không thích ăn ngọt như cậu thì mau ngán lắm. Cũng ngộ một chỗ là cậu rất thích uống ngọt.
Hai Nghĩa liếc mắt nhìn xuống dưới qua kính chiếu hậu. Rồi quay qua nhìn mặt Marshall Tường. Quả thật hai khuôn mặt hao hao nhau, giấy tờ cũng
– Rồi sao nữa anh Hai Nghĩa? – Út Thương giương mắt ngóng.
– Loại thuốc đó là để ngăn nạn nhân kêu cứu hòng dễ bề mổ cướp nội tạng hơn. Tôi không chắc cậu này uống là vì muốn giữ mạng hay là may mắn thoát kiếp phanh thây đây.
– Nếu mà là vế sau thì rất đáng lo ngại. – Năm Tường mím chặt môi. – Chỉ sợ cậu đó dùng “Khổ nhục kế” để nằm vùng mà thôi.
– Ừ hí.
Anh Hai Nghĩa đề nghị:
– Để cho chắc ăn, tôi sẽ lên đó ở tạm một đêm, coi thử tâm tính của Nguyễn Trung Tín như thế nào.
Đường lên Phụng Hoàng Sơn không hề dễ đi đối với những tay lái kén địa hình. Nhưng đối với một vận động viên đua xe chuyên nghiệp như Yến Thanh thì cung đường này dễ như ăn bánh. Thành ra Năm Tường nhường bánh-lái lại cho cậu em họ La, và xuống băng chót ngồi với anh họ Kiến Hữu; vị trí của anh bây giờ là chỗ của Vệ Thương.
Chừng hơn mười giờ kém mười lăm, nhóm của Mục sư Tin Lành mới tới được ngôi tịnh thất vô danh ấy. Đón tiếp họ là Trì Thương và Châu Lợi, mỗi người đang cầm một cây chổi bện từ xơ-dừa để quét sân trước đầy lá khô.
– Cũng may là còn phòng. Nhưng không phải là ở đây. – Châu Lợi vừa nói vừa đưa mắt nhìn ba người khách lạ.
Hai Nghĩa cười hỏi:
– Thế ở đâu anh?
– Nhà của ông Sáu Diên. Ba người mấy anh nghỉ ở đó sẽ đỡ chật chội hơn ở đây nhiều.
– Vậy cảm phiền anh dẫn đường hen?
Châu Lợi chắp tay mà nói:
– Sadhu.
Kiến Hữu mượn cớ muốn ở lại để tìm hiểu về Theravada, vì bản thân mình theo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” nên không rõ Phật Giáo Nguyên Thủy khác biệt ra sao.
Trì Thương ngó chàng ta cười mỉm chi rồi gật đầu chấp thuận.
Nhưng cái tịnh thất ngoài đồ ăn – thức uống ra thì không còn gì cả, Kiến Hữu thất vọng quá chừng. Cho đến khi anh thấy thơ phòng… Bên trong đó bày đầy sách vở và máy móc tân kỳ, dường như là nơi cất giữ tài liệu của Tăng đoàn…
Vừa mới chạm vô ổ khóa, Kiến Hữu đã bị ai đó giữ chặt hai vai. Rồi chưa kịp phản ứng, chàng cư sĩ Thần Kinh đã bị khóa cứng tay. Thủy Diệu lạnh giọng hỏi:
– Anh là điệp viên ở đâu lại đây?
Kiến Hữu cười gượng và đáp lại bằng một giọng Anh ngữ không pha một xí âm Huế nào.
Cuộc đối thoại của họ đã rơi vào tai của Quế Trân, nhưng vì con nhỏ dốt đặc cán mai nên không hiểu mô tê chi sất, chỉ nghĩ chắc ông mới tới này vô thơ phòng mà không xin phép nên mới xảy ra cự cãi với Thầy Diệu.
– Ủa cô Trân… – Kiến Hữu mượn cớ hòng thoát khỏi sự truy hỏi của Thủy Diệu. – Răng cô nỏ đi ngủ rứa?
– Hả? À… Tui ra ngoài sau hè ngắm trăng xíu.
Trước lúc về nhà ông Sáu Diên, Kiến Hữu bỏ lại một câu:
– JB Khải chính là “Cừu Đen”, một kẻ nằm vùng đội lốt chủ chăn mà thôi.
– Thiện hay Ác?
Nhưng Kiến Hữu đã quày quả đi mất hút.
Khắc Xương đã ngồi đợi Quế Trân hơn nửa tiếng đồng hồ. Nếu cô mà ra trễ thêm chút nữa chắc không còn gì ăn mất.
– Hẹn tui ra đây chi?
– Có người “phá mồi”…
– Mồi còn bao nhiêu đâu mà phá? Ăn gì ăn dữ vậy hổng biết nữa…
– Cô nè…
– Sao? – Quế Trân hỏi mà đôi mắt dòm xuống cái đùi gà tẩm bột chiên giòn đang cầm trên tay mình.
– Cô thấy cô Xuân sao?
– Thì cũng… bình thường, đâu có khật khùng hay mát-tăng-xít gì đâu, chỉ bị cái dễ khóc sướt mướt thôi.
Sau buổi trò chuyện vui vẻ với nhỏ Trân, Khắc Xương đem cái máy Laptop và máy phát Wi-fi đi vào rừng để ngồi truyền tin. Thân chủ của tổ hợp anh vừa nhờ anh đứng ra biện hộ cho con trai trưởng, theo lời kể từ bên phía thân chủ thì con trai ông ta có làm ăn với kẻ vừa bị bắt vì là chân rết trong đường dây buôn người, mà xui rủi sao thằng quý tử của ông lại chọn đúng con nhỏ bị ép bán dâm chứ không phải tự nguyện nên bây giờ gia đình con nhỏ đó đòi bỏ tù con trai ông và buộc ông phải bồi thường một khoản rất lớn cho bên ấy. Đương nhiên làm luật sư là phải giúp cho thân chủ thắng kiện hoặc chí ít cũng gỡ gạc được chút đỉnh, mặc dù nghe xong anh chỉ muốn biến thằng khốn nạn đó thành cái bao cát mà đấm cho đã tay, thứ dòng Trời đánh – Thánh đâm, chúa ôn chúa ngục gì đâu không hà…
Đang soạn thảo văn bản dở tay, Khắc Xương bỗng nghe thấy tiếng chân trần bước đi trên cỏ hoang. Anh lẹ tay tắt máy tính rồi ngồi im đợi người đó tới. Anh không mấy tin tưởng vào sự hoàn lương của Hỷ Tín cũng như lai lịch bất minh của Thiện Sanh, và Duy Hảo cũng vậy.
– Sadhu.
– Thầy Diệu?
– Tôi đây…
Thủy Diệu sửa lại Tăng y trước khi ngồi xuống cạnh Khắc Xương.
– Độ rày tịnh thất không yên… Giờ tôi đã hiểu thấu cảm tưởng của Đấng Thế Tôn khi Ngài ấy rời bỏ Tăng đoàn mà vào rừng sâu sống độc cư.
– Cũng phải thôi. Hỷ Tín làm nhiều chuyện bậy bạ quá mà, giờ bên nào cũng muốn mần thịt cẩu hết.
– Biết là vậy…
Thủy Diệu tính nói gì đó nhưng tự dưng ngưng ngang. Anh chợt nhớ quãng đời hai mặt mà mình đã từng trải qua, bao nhiêu người bạn đã mất hoặc quay lưng với mình anh đều thuộc hết, những gì ấm êm hay cùng cực anh thảy đều mường tượng lại được, như thể anh đang nhìn vào màn hình của máy chiếu vậy.
– Có khi nào Thầy muốn hoàn tục không?
– Không. Ở đây, tôi mới được là tôi. Những thứ xa hoa và bóng bẩy kia là Thiên La – Địa Võng vây hãm đời tôi trong Địa Ngục Vô Gián.
– Mà công nhận hai anh em họ Võ đó xưng hô không đụng hàng thiệt.
Thủy Diệu nghiêng đầu lắng tai nghe.
– Chữ “Iêng” ngoài nớ ít ai xài lắm.
Thủy Diệu đã hiểu nên bật cười khúc khích. Rồi cười tươi hỏi:
– Vậy ngoài nớ chữ “Anh” là chữ gì?
– Eng.
– En?
– Có “gờ” nữa.
– À…
Khắc Xương vừa gỡ tai nghe Airpods vừa cười biểu:
– Lỡ có lạc hai thằng cha này ở ngoài Thần Kinh, thể nào cũng kiếm được liền, chỉ cần hỏi người ta rằng có thấy ai xưng hô “Iêng – Yêm” hay không là tức khắc thấy mặt.
– Thế giới có biết bao giống dân mà trang phục truyền thống của mỗi nước ít bị trùng lặp há?
– Phải. Tôi vẫn thương tà áo dài cổ điển với đôi guốc mộc, dù nhan sắc của người đó đẹp hay xấu thì dáng đi vẫn giống như đang khiêu vũ. “Nắng Sài-Gòn Anh đi mà chợt mát, bởi vì Em mặc áo lụa Hà Đông…”
…
Stephen Đoàn nâng khẩu cầm lên mà thổi những tình khúc Lê – Uyên Phương. Vừa dứt một đoạn nhạc, anh quay qua nói với Kiều Xuân:
– Tôi thích nghe song ca Sĩ Phú – Khánh ca bài “Vũng lầy của Chúng ta” của đôi uyên ương một thuở Lê Uyên – Phương hơn là “người trong cuộc”.
Kiều Xuân bình phẩm:
– Em lại nghĩ giọng của Lệ Thu hợp với Sĩ Phú hơn.
– Tôi chưa nghe Sĩ Phú song ca với Lệ Thu bao giờ. Có lẽ giọng của cô – chú hợp với nhau hơn.
Đôi bóng của họ đan cài vào nhau như bóng nắng xuyên qua vòm lá dày, để lại những dư hương vụn vỡ của một cuộc tình viễn mơ. Những bông phượng mang màu huyết dụ rụng rơi trong cơn gió nóng bức của ngày Hè; Stephen Đoàn với tay đón lấy một hoa rồi bỏ lên bàn tay của Kiều Xuân, sắc đỏ tương phản với nước da trắng ngần làm cho “Cánh hoa yêu” ấy càng thêm lộng lẫy.
– Ăn kem không Xuân?
– Bữa nay anh hết kêu em uống thuốc rồi ha?
Stephen Đoàn bẽn lẽn cười.
Ông lão bán kem mừng rơn ra mặt. Ông vừa bán kem nội hóa vừa bán kem ngoại nhập để thu hút thêm khách hàng, nhưng độ rày tiền điện tăng quá sức chịu đựng nên ai nấy phải dè sẻn từng đồng để cống nộp, thành thử đời sống vốn eo sèo của ông nay lại càng bèo nhèo hơn.
– Ăn gì dạ cô – cậu?
Kiều Xuân vừa mở bóp vừa ngó vô cái tờ thực đơn dán trên thân xe.
– Anh ăn kem “Shaomei” với em nha? Kem này vừa rẻ mà lại ít ngọt nữa.
– Ừa, tùy Xuân thôi. Tôi cũng đâu phải là người mở hầu hao.
– Sao anh không làm nghề tay trái để sống hả anh?
– Tôi sợ mình bị chia trí mà phụng sự tắc trách.
Hai người không mất quá lâu để chọn cây kem vừa ý. Kiều Xuân chọn cây kem đổ khuôn gấu trúc của hãng “YAA FANG”, tên đầy đủ của nó là “YAA FANG – Panda Ice cream bar”, xuất xứ Đài Loan; và Stephen Đoàn cũng chọn kem của hãng này, nhưng là loại “YAA FANG – Tomato and Dried Pitted Plum Popside”.
– Kem cà chua – xí muội mà anh ăn được hả anh?
Stephen Đoàn mặt đỏ hơn trái cà chua:
– Ờ, thì, mấy bữa nay ăn đồ nóng nhiều quá nên muốn…
Chưa nói hết câu mà cả người bán lẫn nàng đều thi nhau cười sặc sụa. Kiều Xuân xây qua trách yêu ông lão:
– Ông thấy người ta mua mà hổng cản gì hết trơn.
Ông lão giỡn lại:
– Nó đòi… “Thanh lọc tự nhiên” mà, sao tui cản được hả cô?
Kiều Xuân cười hỏi:
– Còn cái nào giống vậy nữa không ông?
– Còn chớ. Của hãng này luôn á: “Tomato Honey and Dark Plum”.
Kiều Xuân dặn:
– Con ăn xong cây này lát con mua luôn cây đó.
– Hai đứa bây thương nhau ghê! Có phước cùng hưởng, có “cầu” cùng chia.
Đến gần chân núi Cô Tô, Kiều Xuân mới mở cây kem cà chua ra ăn.
Ăn đâu được mấy miếng, Kiều Xuân lắc đầu chịu thua.
– Nếu Xuân không ngại, tôi ăn giùm nghen?
Đôi má của Kiều Xuân ửng hồng.
Stephen Đoàn vừa cầm lấy cây kem vừa tâm sự:
– Tôi khoái ăn nhứt là món cà chua hấp dầm nước-tương ớt. Người ta thì ăn mỳ gói dằn bụng, còn tôi thì hảo món này.
– Ăn vậy đâu có tốt anh.
– Tôi biết. Nhưng tiền đâu mà ra ngoài ăn hủ tíu gõ hay cháo Tiều? Sẵn có vườn rau của nhà Dòng nên tôi thường ra đó hái vài trái, tối nào thức khuya học bài tôi cũng làm một tô cơm bự. “Lâu rồi đời mình cũng qua…”
Kiều Xuân biết người thương đang nhớ đến ông Đoàn Tòng. Nàng biết rất nhiều sự thật về cuộc hôn nhân giữa ông Tòng và bà Sương, nhưng “nói năng chi cũng thừa”, nói năng chi cũng lỡ làng hết rồi, khơi gợi lại làm chi đoạn buồn quá khứ ấy cho chàng nặng lòng thêm.
– Đôi lúc, Cha Hoàn sẽ dẫn tôi đi ăn cơm Tàu. Cha không muốn làm phiền cô Tư Oanh nên ít khi nào về nhà của vợ chồng cổ, chứ đừng nói chi là nhận tiền của họ. Những ngày ấy, hai cha con chia nhau một dĩa cơm chiên Dương Châu và một tô canh sườn nấu nước trà; tôi biết Cha cốt ý rủ tôi đi ăn là để cho tôi ăn, nhưng nếu ông không ăn thì tôi sẽ không chịu ăn, thành thử ông mới…
Stephen Đoàn đã rớt nước mắt. Anh đưa mắt nhìn lên vòm phượng đỏ đang lắc lư theo nhịp điệu của những trận gió mát rượi. Hình ảnh vườn rau năm nào hốt nhiên tái hiện thật rõ ràng trong tâm trí anh, thật đến nỗi anh có cảm tưởng chỉ cần băng qua lộ là sẽ tới được vùng đất Thánh Thiêng ấy.
– Cha Hoàn cũng hệt như Cha Dương. Học Giáo lý dở ẹc, chỉ được cái sống thật tình theo lời Chúa dặn, không bao giờ sai phạm một li. Kêu hai Cha lên giảng thì hai Cha không dám lên giảng vì hai Cha biết mình không bằng ai hết, nhưng kêu hai Cha vác Thập Tự – hai Cha sẽ gánh lấy đến cùng.
Giọng chàng như rót mật vào tai nàng, song ấy là thứ mật mà một Giáo sĩ rót vô tai con Chiên, mật ngọt của chuyện kể về những chứng tá của Đức Jesus Kitô; không phải là mật của loài mãng xà nơi vườn Địa Đàng thuở xưa, mật đắng làm mù lòa đôi mắt và bóp nghẹt lương tri.
“Theo Em xuống phố trưa nay” rồi ngày mai sẽ “Nghìn trùng xa cách”. Để những ngày tháng phụng vụ tha nhân của Stephen Đoàn được no bụng, Kiều Xuân mua cho chàng mấy ký khô ngon và hứa sẽ gởi tóp mỡ lên đều đặn. “Còn gì đâu nữa mà khóc với cười” và “Còn gì đâu nữa mà giữ cho Người”.
– Anh tặng cho em một bài hát cuối được không?
Stephen Đoàn vừa lau miệng vừa gật đầu. Rồi chàng nói:
– “Hỏi Người còn nhớ đến Ta?” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ mà tôi đã từng nghe qua phần trình bày của Thái Thanh. Tôi sẽ thổi khẩu cầm thôi, còn ca thì không.
Trong tình khúc ấy, Kiều Xuân nhớ có câu “Và hỏi tại sao thế giới đông người Anh chỉ thấy riêng Em?”
– Anh biết không, nhạc sĩ Vũ Thành An có bài “Không tên số Sáu” mô tả về ái ân đôi lứa mà không bị dung tục một xíu nhau: “Tìm nhau, khắp đêm tìm nhau, ướt môi tìm nhau, với tay tìm nhau…”
– Chỉ có chính nhạc sĩ mới thể hiện được tinh thần của tình khúc đó. Trong mắt tôi, không một ai có thể trình bày vượt hơn cụ; kể cả Sĩ Phú, Anh Khoa, Duy Quang, Anh Tú, Tuấn Ngọc, Tuấn Anh, Vũ Khanh,… và nhiều thế hệ sau, sau nữa.
Kiều Xuân ngước mắt nhìn chàng:
– Nhưng em tin, anh ca hay hơn cụ nhiều. Bởi “Trong đôi mắt Em, Anh là tất cả, là niềm vui, là hạnh phúc Em dấu yêu… Nhưng Em ước gì… Mình gặp nhau lúc Anh chưa ràng buộc, và Em chưa thuộc về ai…”
Stephen Đoàn nói mà như đang hát:
– “Anh sẽ cố quên khung trời hoa mộng…”
– “Ta đến với nhau muộn màng trong đớn đau. Một lần cho mãi nhớ thương dài lâu…”
Stephen Đoàn ngồi phịch xuống ghế. Kiều Xuân thức thời tự ngồi dịch sang bên trái, nàng bất giác đưa tay lau đôi dòng lệ, nhưng nào đâu mắt nàng lại ráo hoảnh.
– Xuân.
– Sao “Lui”?
– Có muốn nghe tôi thổi khẩu cầm không?
– Còn muốn.
Nhưng trước sân chùa mà thổi bài này có khác nào đang biểu diễn trích đoạn “Chuyện tình Lan và Điệp”, “Hồn Bướm – Mơ Tiên” hay “Áo cưới trước cổng chùa” đâu? Thành ra Stephen Đoàn dụ dự một hồi rồi cất luôn cây harmonica.
Rồi không biết lấy đâu ra can đảm, Stephen Đoàn mời Kiều Xuân theo mình ra mạn núi mà anh thường ngồi ngắm cảnh để nghe anh đàn “Một lần cuối, rồi thôi”.
Áng chừng xế trưa, Kiều Xuân và Stephen Đoàn trở về tịnh thất. Trên đường đi, hai người tìm thấy một cây xoài đí* đỏ đầu vàng, trông khá giống xoài Mễ; thấy lạ nên hái người hái chơi chừng chục trái, lát nữa hỏi nhóm Tăng sĩ coi có ăn được không, nếu ăn được mà thấy ngon thì sẽ quay lại hái thêm.
– Xuân.
– Dạ?
– Tự nhiên tôi nhớ tới bài “Gió về miền xuôi” của nhạc sĩ Anh Việt Thu: “Trên đường Em đi, đường nở hoa khắp luống cày. Trên đường Em đi, đường nở hoa khắp chiến trường.”
Kiều Xuân cười nụ.
Bướm không còn rập rờn bay trên đây nhiều nữa. Những dấu chân hoang qua miền Vạn Kiếp đã làm phai nhạt sắc hương thiên nhiên; càng thêm nhiều công trình nhân tạo càng khiến cảnh trí nơi đây thêm phần sượng sùng và trơ trẽn. Đến một đỗi hoa giăng khắp nẻo, đôi “Tình lỡ” ấy phát hiện một cây điều đơm bông kết trái thắm cành; Stephen Đoàn bèn leo lên cây để hái trái cho mọi người ăn, cái áo gió của chàng trở thành tay nải gói quà.
– Cũng may mình có muối tôm Tây Ninh. – Kiều Xuân vừa kê vai cho Stephen Đoàn nương vào mà nhảy xuống.
– Mùa này mà có điều… Đúng là của Trời cho!
– Anh thổi cho em nghe một bài nào nữa được không?
– “Còn tuổi nào cho Em” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. – Stephen Đoàn đã thấm mệt nên muốn lựa một bài đơn giản thổi cho đỡ hụt hơi.
– “Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu?”
“Tuổi này”, nhưng Stephen Đoàn không nói ra, anh lặng câm mà để cho tình khúc ấy nói thay lòng mình.
Giai điệu harmonica réo rắt ấy phủ khắp con đường về lại tịnh thất. Mồ hôi mồ kê đã vã đầy đầu đầy trán Stephen Đoàn, mặc dù đã không còn hơi sức nhưng vẫn ráng thổi cho xong bản nhạc.
Ignacio Cường đã đứng đợi họ ở trước hàng hiên của tịnh thất, nom sắc mặt y chang Bao Công lúc quăng lịnh bài mà hô, “Khai đao.”
– Lại đây xách giùm ảnh bịch điều coi. – Kiều Xuân trừng mắt mà nói.
– Dụ ai không dụ, đi dụ thầy tu. – Đức Cường cũng quắc mắc dòm lại.
Henrico Thạnh bước ra can ngăn cho có lệ rồi cầm lấy bọc điều mà đi thẳng một hơi vô bếp.
Kiều Xuân bỏ về phòng, còn Y-Nhã Cường thì nắm tay Stephen Đoàn xuống nhà sau.
Nhà sau tề tựu gần đủ khách phương xa. Do không đủ chỗ ngồi nên nhóm thanh – thiếu niên phải ra ngoài sân ngồi, nguyên đám đang tụ lại mà kêu lô-tô ăn tiền; mợ Hai, bà Ái Liên, thím Huê, chú Thương, Khắc Xương và Quế Trân cũng chơi hệt vậy, riêng nhóm Linh mục và nhóm Mục sư chỉ chơi cho vui chứ không chịu cá cược.
Henrico Thạnh dòm bọc điều mà nói:
– Trái này ở ngoài Trung và Bắc không có. Mà phải biết điều nào ăn được và điều nào ăn không được, lớ quớ bỏ vô miệng là sưng mỏ liền.
Longiuns Kiến kể:
– Còn nhớ năm xưa một ông Bắc 54 vô Nam đi mua trái mãng cầu ta, ổng biểu bán cho một ký na. Bà thím bả ngó ổng đắm đuối, rồi hỏi lại, “Gì vậy cha? Ăn gì hổng ăn đi ăn lựu đạn?”
Vệ Thương cười hỏi:
– Sao vậy ông?
– Nam Kỳ thuở xưa thường gọi “Lựu đạn” là “Na”.
Louis Quế cười biểu:
– Tưởng bả bán thiệt chớ.
Bà Ái Liên chen vô:
– Bả đâu phải “Thiên Nga” mà có thứ đó.
Mợ Hai tặc lưỡi:
– Trái vải thì bán đầy, chớ trái điều có tiền muốn ăn cũng hổng có.
Henrico Thạnh rửa xong mớ điều, đem gác cái rổ đựng điều trên sóng chén cho ráo nước. Đoạn quay qua nói với Longiuns Kiến:
– Chừng nào vô mùa điều con gởi lên cho Thầy một cần-xé, ăn móp mỏ luôn.
…
Hỷ Tín lại nhà của bà cụ hôm bữa mà gởi tặng một phần cơm. Biết răng cỏ của ngoại không tốt nên cậu mua các món ăn kèm dễ nhai như đậu hũ kho, canh khổ qua dồn thịt, cà tím nướng mỡ hành và đậu rồng xào hột vịt.
Đã lâu mới có được bữa cơm ngon như bữa cỗ nên ngoại mừng ra mặt, hết tíu ta tíu tít hỏi chuyện này lại cười híp mắt bắt sang chuyện khác. Hỷ Tín chỉ biết cặm cụi làm việc nhà giùm ngoại chứ không nói được tiếng nào. Bấy giờ ngoại mới sực nhớ ra thằng nhỏ này bị câm, nên thôi cất giọng hỏi han.
Trước lúc ra về, Hỷ Tín mở điện thoại lên và đánh một hàng chữ cho ngoại đọc. Nhưng vì mắt ngoại quá yếu nên cậu đành bật tính năng “Đọc”:
“Con sẽ ráng lo cho ngoại chừng nào có thể. Tội Nghiệp con đầy, giờ đây phải trả.”
Dù không hiểu sao thằng nhỏ lạ mặt này lại tốt với mình quá chừng nhưng ngoại không biểu lộ chi khác lạ hết, vẫn cười tươi mà tiễn chân nó tới đầu xóm.
Vừa ra khỏi xóm nghèo ven rìa núi, Hỷ Tín đã bị ai đó kêu giựt giọng.
– Tín, tụi tao kiếm mày muốn chết luôn! Té ra mày trốn ở đây.
– Mày tu ở đâu vậy? Cho tụi tao tu chung với.
– Sao tụi tao hỏi mày mà mày không trả lời tiếng nào vậy hả? Yên thân rồi quên bạn bè hả thằng chó đẻ?
Hỷ Tín giơ chân đạp vô đầu gối người từng là bạn với cậu. Rồi quày quả bỏ đi một nước. Đằng sau lưng cậu, hai đứa đồng nghiệp không ngừng rủa xả – trách mắng cậu đủ điều, đang trưa trời trưa trật ít khách hành hương nên âm thanh của hai đứa nó càng vang vọng tợn.
Tự dưng Hỷ Tín nhớ lại một bài Kệ mà nhị sư huynh Trì Thương học được từ một người đồng Đạo, liền mừng rỡ đọc trong đầu để đánh lạc hướng tâm sân đang phát khởi:
“Đức Phật trên đầu con
Xá-Lợi-Phất bên phải,
Mục-Kiền-Liên bên trái
Tam-Tạng ở phía trước
A-Nan phía sau con
Bậc lậu tận bốn hướng
Chung quanh tứ Hộ Thể
Đế Thích và Phạm Thiên
Nhờ Thần lực các Ngài
Tất cả nạn – họa – tai
Nguy hại dù còn nhiều
Xin hãy tiêu diệt hết.”
Đọc đi đọc lại bài Kệ tới lần thứ năm mà vẫn chưa tới tịnh thất, trong khi đó đôi chân đã bắt đầu mỏi nhừ, Hỷ Tín đành kiếm chỗ ngồi nghỉ; đằng kia có gốc cây sanh, vừa hay có tảng đá nhẵn thín, cậu bèn nhắm thẳng hướng đó mà đi tới, hai tên Dạ-Xoa vẫn bám riết không buông.
Người trai hớt đầu đinh níu áo hỏi:
– Tín, cho tao miếng nước được hôn?
Hỷ Tín đưa cho mỗi đứa một chai nước suối, rồi cúi xuống cột lại tay nải.
– Sao mày không chịu nói với tụi tao tiếng nào vậy?
– Cẩu bị câm thì nói bằng cách nào?
Người trai có mái tóc như gà bươi nhăn mặt hỏi lại:
– Câm thật không hay là giả vờ đấy?
Châu Lợi không để đồ đệ khó xử thêm nữa. Ông nắm tay người Sa-di trẻ tuổi mà kéo cậu ta lên rồi hai thầy – trò lặng thinh đi tiếp. Đi được đâu vài bước, Hỷ Tín ngừng lại đặng nhường cho Thầy đi trước. Hai thầy trò một trước – một sau cứ thế bước đi trong Niệm lành của Pháp, mặc kệ hai tên Dạ-Xoa đang rối bời trong dạ vì suy tính thiệt – hơn cho bản thân họ.
Quỷ Thấp chạy lên níu áo Châu Lợi:
– Nè, cho hai đứa tôi lên núi ẩn tu được không?
– Ba ngày nữa rồi hẵng nay.
Quỷ Cao nhếch miệng hỏi:
– Sao hôm nay lại không được? Hay là ông đang giấu chuyện gì phải hôn?
“Rắc.”
Châu Lợi bẻ đôi nhành cây khô nằm trên mặt đất. Rồi lạnh giọng nhắc nhở:
– Muốn lánh nạn thì bỏ cái thóc tọc mạch đó đi. Tôi không phải là A-La-Hán, càng không phải là Bồ-Tát sống, nên sẽ không nương tay với ai đâu.
Quỷ Thấp trợn tròn mắt hỏi:
– Này là núi Thiếu Lâm hay là Cô Tô vậy?
– Cô Tô vẫn có Mộ Dung Phục.
Bấy giờ Hỷ Tín mới sực nhớ chỉ có ba người trong Tăng đoàn là không có võ thuật, còn lại đều là cao thủ võ lâm giấu mặt.
Đợi hai tên Dạ-Xoa đi xuống dưới xóm nhỏ một đỗi, Châu Lợi mới đưa Hỷ Tín trở về tịnh thất bằng con đường tắt.
Hang động ấy nằm ẩn trong gốc cây tòng trăm năm. Bề ngang của cái gốc cây khoảng độ ba mét, cao chừng thước rưỡi nhưng thời may bên dưới có khoảng trống độ chừng thước hai nên không bị cụng đầu vào chùm rễ của loài cây đại thụ. Nhờ lùm cây mắt mèo dễ gây thương nhớ áng ngữ trước gốc cây nên ít ai phát hiện ra lối này, thành thử Tăng đoàn hay sử dụng con đường này lắm.
Vừa đưa cho Hỷ Tín cây đuốc nhỏ xíu, Châu Lợi vừa dặn dò:
– Coi chừng dơi-quạ và chuột núi. Không muốn bị bịnh dại thì đi đứng cẩn thật chút.
Hỷ Tín ngó xuống đôi chân trần đã chai sạn đi rất nhiều mà tự dưng đâm ra sợ hãi. Cậu không sợ chuột, chỉ ghét đụng vô mấy thứ mềm-mềm lắm lông như thú nhồi bông, con vật nuôi trong nhà,… lần nào ghé thăm nội – ngoại cũng bị mấy con chó liếm chân làm cho cậu đâm ra sợ hãi việc về quê chơi.
– Chúng còn đỡ hơn đám bạn của cậu.
Con đường trong hang tăm tối khôn cùng, dẫu đã được ánh đuốc làm đèn dẫn lối, cảnh vật chung quanh vẫn không bớt thâm u một chút nào. Đôi lúc, cả hai nghe thấy tiếng chuột đào hang hay cắn lộn với nhau; và nhìn thấy cả bầy chuột con đỏ hon đang nằm ổ, chuột mẹ nằm kế bên giương đôi mắt giận dữ mà ngó về phía họ. Bầy dơi-quạ đã tản đi đâu không biết, chỉ để lại những bãi phẩn dơ vương vãi trên mặt đất.
– Phân dơi có thể làm thuốc nổ, cậu đã biết chưa? Chỉ cần trộn thêm với lưu huỳnh và…
Sự ngưng bặt bất thình lình của Châu Lợi đã khiến Hỷ Tín bị hụt hẫng.
– Tôi lại nhớ tới những chuyện cũ nữa rồi.
Hỷ Tín nhíu mày suy nghĩ, rồi vô tình đạp lên vạt áo của Châu Lợi.
– Đang muốn biết hồi xưa tôi là ai à? Tôi là lính đặc chủng, nhưng đã giả chết để giải ngũ từ sau khi tổng thống Bàng Đông Quân bị ám sát. Tôi là người thứ bảy đã tiếp cận chiếc trực thăng đó trước khi để ông Quân lên trển, thành thử…
Hỷ Tín sững sốt đến nỗi quên luôn việc mình còn đang giẫm lên vạt áo của thầy.
– Vậy là cái người cài bom phải là người lên sau tôi. Do đội ngũ kiểm tra tới mười người lận. Tôi e rằng có sự thông đồng trong đây chứ không thể nào cả ba người kia lại đều báo cáo an toàn được.
Hỷ Tín ra dấu, ngụ ý nói có phải là phi công không.
– Cũng có thể. Nhưng phi công đã tan xác rồi thì lấy đâu ra đối chứng. Còn nhớ năm ấy biết bao nhiêu người đã vào tù oan hay thậm chí là bị trừ khử để giữ bí mật cho đám cầm đầu vụ đảo chánh đó.
Và cuộc hồi tưởng của người Tăng sĩ đến đây là chấm dứt. Ông biết Hỷ Tín hãy còn thắc mắc rất nhiều, song ông không quyết không giải đáp bất kỳ câu hỏi nào của cậu ấy trong vụ này nữa. Dẫu sao cậu ấy vẫn là một trong những đối tượng bị tình nghi có liên quan tới các thảm án mổ cướp nội tạng.
Còn cách lối ra khoảng đâu vài trăm mét, Châu Lợi ngừng bước để chỉ cho Hỷ Tín thấy một mạch nước ngầm thông với hồ Xoài So. Nước ở đây trong văn vắt, lại ngậy lên mùi cỏ cây ngai ngái và hương đá thiên nhiên lành lạnh, nhưng người Tăng sĩ già khuyên không nên dùng vì đây là nguồn thức uống của loài động vật nên không sạch cho lắm.
Ra khỏi lòng đất, hai thầy trò đặt chân lên một thảm cỏ xanh ngắt và lấm chấm những đốm cỏ may; loài cỏ may này có thể trở thành những bài thuốc hay nếu nằm trong tay những người giỏi Đông Y, nhưng với người không tin tưởng nó, nó cũng sẽ như bao nhiêu loài cỏ dây mọc hoang trên đây thôi.
Vừa nhìn Thầy che chắn cửa hang bằng mớ dây leo của cây rau má, Hỷ Tín vừa tận hưởng bầu không khí thanh sạch và bình lặng của chốn núi rừng Cô Tô. Gió thổi qua miền đại ngàn, có thể trên chặng đường vạn dặm ấy nó đã mang theo hơi biển Hà Tiên chăng, mà sao mắt cậu cảm thấy cay xè và môi thì chát đắng?
– Xong rồi. Đi tiếp thôi.
Đường về tịnh thất vẫn còn xa lắm, lại còn phải băng qua hai con lạch nhỏ và một rừng cây thốt nốt vô chủ. Tuy vậy, Hỷ Tín không còn mỏi mệt nữa mà lại cảm thấy rất vui và phấn khởi, vì biết rằng mình sắp được ngắm những cảnh đẹp hiền hòa mà mình chưa nhìn thấy hết ở vùng núi này.
Thật thế, đi chưa được mười mấy mét, Hỷ Tín đã nghe Châu Lợi giải thích cho mình hiểu về đời sống của loài chim núi. Kia là ổ của bầy cu-gáy ham nói, đằng đó là chốn của gia đình họa-mi hót hay, và tuốt đằng đẵng là nhà của đám gà-lôi oai vệ. Chưa kể đến là những giống trao-trảo, chiền-chiện, sơn-ca, chìa-vôi, chích-chòe, chích-bông, se-sẻ, chim-sâu,… nếu có đứng đây tới tối mịt cũng không thể ngắm hết được họ hàng Lông Vũ.
– Nè.
Hỷ Tín cùng Thầy cậu vãi gạo để khoản đãi các loài chim trời. Bịch gạo này do một thí chủ cúng dường cho Thầy cậu trong lúc ông đi khất thực ở gần chợ Châu Lợi; Giới luật quy định Tăng sĩ không được nấu nướng nên số gạo này mọi người thường đem chia cho các loài chim trời hoặc người cần đến.
– Chim trời cũng tương tợ loài người, hễ có cái ăn mới chịu gần gũi mình. Nhưng chim trời ít lấy oán báo ơn hơn loài người, không có ăn nữa thì chúng chỉ bỏ đi mà thôi…
Khu rừng thốt-nốt vô chủ bữa nay huyên náo khôn cùng vì có một đôi uyên ương lên đây chụp hình đám cưới. Chú rể tròn ủm như hột mít, còn cô dâu vừa đẹp người mà lại cao; trông cặp này không khác chi Xã Xệ với chú Thoòng. Tội nghiệp nhiếp ảnh gia phải chạy tới chạy lui, căng góc muốn chết, mới bắt được những bức ảnh đẹp nhứt cho đôi vợ chồng son. Dù muốn dù không, hai thầy trò vẫn bị chửi oan vài tiếng do lỡ bước vô góc máy của nhiếp ảnh gia.
Rời khỏi “Rừng Na-Uy”, hai thầy trò thong dong bước thêm gần hai trăm nữa thì đến tịnh thất. Lại gần thêm chút nữa, cả hai trông thấy Trì Thương đang trò chuyện với người anh song sinh: Mộc Thảo vẫn mỉm môi cười như mọi khi nhưng vẻ mặt Kim Thương lại đỏ gay như sắp sửa lao vào đánh em mình.
– Xong chưa anh Hai? Tôi được tự do rồi chớ?
Chú Thương khịt mũi, rồi hứ một cái thật lớn trước khi quày quả bỏ đi.
Trì Thương sửa lại vai áo, rồi khoan thai bước lại gần đại sư huynh và đồ đệ. Đến trước mặt Hỷ Tín, anh cười tươi mà nói:
– Đi vậy mà không rên siếc gì. Coi như đã học được một bước trong bài học Nhiếp Tâm rồi.
Hỷ Tín hoan hỷ chắp tay xá nhị sư huynh một cái.
Trì Thương chắp tay đáp lễ, rồi mời hai thầy – trò vô nhà uống nước đậu xanh – rau má pha với nước dừa xiêm để giải nhiệt cho cơ thể. Biết anh thích ăn đậu nên má anh bỏ rất nhiều đậu xanh, do đó hương vị của rau má bị át đi rất nhiều, đến nỗi nếu không nói là nước đậu xanh – rau má ắt hẳn người uống sẽ tưởng lầm là nước đậu xanh – dừa xiêm.
Hỷ Tín lắc tay, rồi vẽ vòng tròn trong không khí, ngụ ý không muốn bỏ dừa xiêm.
– Rồi, để mợ làm cho một ly… Rau má nhiều hay đậu xanh nhiều? Số Một hay số Hai?
Hỷ Tín giơ ngón trỏ.
Với những ai không thuộc Tăng đoàn thì sẽ được ăn phần cái ép từ xác của rau má, còn gọi tắt là sâm rau-má, món này do Quế Trân và Kiều Xuân làm.
– Tín. – Chân Tâm vừa đẩy mắt kiếng vừa trầm giọng nhắc nhở. – Lát trả bài “Kinh Biển”. Không cần đúng hết đâu, cậu hiểu sao thì ghi ra như vậy cho tôi coi là được.
Hỷ Tín ra dấu hỏi Thiện Sanh đã nộp bài chưa.
– Rồi, trật gần đủ trăm phần trăm. Hiện đang ngồi học lại với Duy Hảo trong trỏng kìa.
Chú Thương tặc lưỡi:
– Trời ơi, chấm điểm mà tưởng xà-bông diệt khuẩn, diệt đến 99,99 phần trăm vi trùng và vi khuẩn.
– Không, giống bầu cử. – Chân Tâm mỉm miệng cười.
Vệ Thương thắc mắc hỏi:
– Chuột núi là con gì vậy?
Chú Thương hướt mà trả lời:
– Chuột núi là con “Sơn Thử”, bà con với Ngũ Thử ở Hãm Không đảo.
Đáng ra ngày mai là nhóm Linh mục, Khắc Xương và hai nàng Kiến Hòa sẽ về Vĩnh Long. Nhưng sau một hồi bàn bạc, rạng sáng ngày mốt họ mới khởi hành.
Stephen Đoàn trở lại Vườn Lan để chăm sóc chò Dendro Xuân của mình. Thầy Sáu Quới cũng vậy, chò Cẩm Cù mà chết là hai lỗ tai của chú sẽ điếc luôn.
Nhóm Tăng sĩ đang ôn kinh điển nơi Chánh Điện. Giọng nói thanh thoát của Thanh Liên đan xen với thanh âm trầm hùng của Châu Lợi đã làm cho nhóm Linh mục và hai vị Mục sư có cảm tưởng đang lạc vào một buổi tế đàn ở xứ Ai Cập cổ đại.
Trong lúc chờ bên Phật Giáo xong buổi học tập, nhóm Cơ Đốc Giáo đi thưởng lan. Các giống lan không nở đồng đều, loại này vừa tàn thì loại kia hãy đang hàm tiếu, nhưng nhờ vậy khu vườn quanh năm có bông để ngắm.
– Hình như mấy cái chò này là do họ tự làm… – Hai Nghĩa vừa nói vừa cầm một cái chò, trong chồng chò dựng ở vách hang mé tả, lên xem.
Ignacio Cường gật đầu:
– Phải. Phú Lâm và Phá Vân làm.
Louis Quế hỏi:
– Mấy cậu bên Tin Lành mà là Tin Lành nào?
Hai Nghĩa đáp:
– Hội Thánh Tin Lành Lutheran. Tôi là huynh trưởng.
Năm Tường hỏi lại:
– Còn các vị bên Dòng nào?
Longiuns Kiến trả lời:
– Dòng Chúa Cứu Thế. Tôi là Thầy Dòng.
Năm Tường day qua nói với huynh trưởng:
– Chắc là trường cũ của Mười Anh phải không?
– Nó đó. – Ignacio Cường hướt lời.
Longiuns Kiến ngạc nhiên hỏi nữa:
– Emmanuel – Ngô Kỳ Anh phải không? Mèn đét ơi, độ rày nó sao rồi hai cậu?
Năm Tường bật cười:
– Dạ, nó vẫn thường.
Hai Nghĩa thấy mấy chò lan chưa trổ có dáng đẹp quá nên muốn xin vài chò trưng chơi, nhưng không dám mở miệng nói.
– Thích chò nào cứ việc lấy đi anh Nghĩa. – Trì Thương vừa nói vừa trải chiếu.
Thanh Liên tâm tình:
– Sống ở xứ này quen riết, ra nước ngoài xin mà người ta không cho hoặc cho mình xong – người ta chặt cây thì giở tánh sân hận, bực tức.
Hai Nghĩa khựng lại, anh hỏi mà sắc diện đã hơi khác hơn ban nãy:
– Là sao anh?
– Tức là bên mình hay ưa cho rau cải – trái cây và thậm chí là mời qua hái; nhưng bên nước ngoài thì người ta ít ai cho vì sợ phải chịu trách nhiệm nếu người nhận bị trúng thực do ăn nông sản trong vườn nhà họ.
Louis Quế phì cười:
– Nhưng tập cái tánh đi đâu thấy đồ tốt cũng xin thì tôi thấy hơi kỳ nha.
Thanh Liên gật đầu:
– Đó là cái Nghiệp của họ, cái Nghiệp ăn xin – ăn mày thiên hạ. Tôi có một thí chủ đã từng sống trong hoàn cảnh nhà rất nghèo nhưng không bao giờ ngồi dòm miệng hay nịnh nọt để xin ăn, bây giờ thì trong nhà của cổ không thiếu thứ gì và còn dư để cho lại người khác nữa.
Hai Nghĩa dụ dự không biết có nên lấy hay không.
Longiuns Kiến vỗ vai Hai Nghĩa mấy cái đau điếng mà cười ha hả:
– Cứ lựa thoải mái đi cậu. Chưa quen với tánh nết mấy đứa này thì thấy tụi nó nói chuyện kỳ lắm, chứ gần gũi lâu ngày là biết cái bụng tụi nó dễ thương dữ lắm.
Louis Quế khoe rằng mình đã lấy hai chò và sẽ lấy thêm hai chò nữa, Stephen Đoàn cũng góp vài lời trấn an. Nghe vậy, Hai Nghĩa mới quyết định lấy một chò Lan Vanda Uyên-Ương và một chò Lan Giáng-Hương Cửu-Bảo-Tiên.
Thanh Liên góp ý:
– Sao anh không hỏi coi vợ anh có thích chò nào hôn?
– Ờ há… Ủa mà sao anh biết tôi có vợ?
– Anh còn một đứa con trai tên Hải nữa kìa.
Sau mười phút chờ dài cả cổ, Hoàng Minh Tâm mới chịu bắt máy. Thì ra cử thuốc an thai đã khiến chị ngủ li bì, đến nỗi ông ngoại phải đi rước bé Hải giùm luôn. Không có cuộc gọi của chồng, chắc chị sẽ nằm bẹp tới khuya mất.
– Gì vậy anh?
– Em xem chò lan nào thích thì anh…
– Thôi nha. Hổng có mua nha.
– Mua cái gì mà mua? Bày đặt tài lanh không hà. Người ta cho mình mà em.
– Mỹ ơi, con đã thấy hôn nhân là “mồ chôn tình ái” chưa? – Longiuns Kiến xoa đầu thằng con xấu trai.
– “Khi mới yêu thường mơ mộng nhiều…” – Louis Quế ca mà như rên.
– Nín! – Ignacio Cường túm cái mỏ của ông Sáu Tửng lại.
Kiến Hữu bật cười khúc khích:
– Bài ni tên là “Khi đã yêu” của Phượng Linh – Nguyễn Văn Đông phải khôn? Tôi ưa nghe “Họa mi xứ Huế” Hà Thanh ca bài ni lắm.
Ignacio Cường nhếch miệng cười:
– Còn tôi thích nghe bài “Thôi” của Y Vân và Nguyễn Long lắm.
Louis Quế vỗ tay cái chát:
– Jo Marcel ca bản đó là hết sẩy con bà Bảy… Dạ, em thôi liền. Tắt đài liền.
– Anh đang ở đâu vậy? Kêu đi mua thốt-nốt rồi đi luôn mất biệt…
– Em biết anh làm nghề gì phải không?
– Tôi sắp đẻ tới nơi mà không thấy cái bản mặt của anh đâu.
– Yên tâm. Tới chừng đó em sẽ thấy cái bản mặt của anh 24/24.
Thanh Liên chấm dứt cuộc cự lộn của đôi vợ chồng khắc khẩu:
– Cô coi chò nào được thì ảnh xí trước. Nhiều người tới lấy lắm lận.
– Trời, sư thầy chi mà giống ni cô quá vậy?
– Phải, tôi giống phái nữ, tôi biết mà.
– Ờ, anh mà không lên tiếng là tôi tưởng…
– Chọn lan giùm tôi đi cô.
Sau một hồi đày ải ông chồng tứ tuần, Hoàng Minh Tâm mới chọn được vài chò lan ưng ý. Cô lấy một chò Lan Báo-Hỷ, một chò Lan Đơn màu cam, một chò Lan Hoàng-Thảo Vôi và một chò Lan Nữ-Hoàng Bóng-Đêm.
Kiến Hữu chỉ chọn một chò Lan Cù-lao-Minh. Anh không có nhà riêng nên làm biếng trồng nhiều loại cây.
Nhóm Linh mục mời nhóm Tăng sĩ đàm luận về Đạo và Đời tiếp. Bên nhóm của Mục sư Nghĩa cũng góp mặt cho vui. Vậy là Trì Thương trải thêm hai chiếc chiếu nữa.
Kiến Hữu mời mọi người nếm thử món bánh giấy mà anh mới vừa biết đến sáng nay. “Bánh giấy” kỳ thực là một dạng bánh tráng mỏng nhưng lớp bột hơi dày hơn một xíu, không cần nhai, chỉ đặt vô miệng là nó sẽ tan ra ngay tức khắc.
– Rất cảm ơn anh, nhưng tụi tôi không ăn sau Chánh Ngọ. – Thanh Liên giơ tay từ chối thẳng.
Năm Tường chưng hửng hỏi:
– Vậy nhịn đói tới trưa mai luôn sao?
– Dạ.
Kiến Hữu le lưỡi:
– Răng mà chịu nổi.
– Nếu không chịu được thì hoàn tục. – Thanh Liên vừa cười nói vừa châm trà vô tách của từng người. – Thành ra bất cứ ai muốn xuất gia, theo truyền thống Theravada, thì phải thọ giới Sa-di ít nhứt một năm để thử coi có thích nghi nổi với đời sống khổ hạnh của một nhà tu hay là không.
Kiến Hữu tặc lưỡi:
– Cũng bởi bên đây dễ dãi quá nên Phật Giáo bây chừ bị bọn “láo liên láo lịa, láo từ chợ Sịa láo về” phá cho banh chành hết. Rứa mà đám con nhang vẫn “lạy tơi cả nón” như ri.
– Cứu. – Sáu Quới khều khều Năm Tường.
– Ý ảnh là mấy người đó đội mấy thằng cha tu phá giới lên trên đầu.
– Ôn bộ đi mô rứa?
– Đừng có tưởng tôi không biết anh nói tôi là “Thái giám”.
Kiến Hữu không sượng sùng chi sất, trái lại còn nắm tay Yến Thanh mà kéo ngồi xuống cạnh mình.
– Iêng có thấy ốt ác của yêm khôn?
– Kệ mi.
– Trời ơi tao còn yêu đời lắm mà sao mày rủ tao đi tu? – Vệ Thương ngồi xuống mà mặt mày bí xị như vừa bị giựt hụi.
– Có cái Đạo nào chứa nổi cái thằng quỷ sống như mày không Út?
– Có. Đạo…
– Nín. – Ignacio Cường đập bàn cái rầm.
Sáu Quới cười rung cả người:
– Kỷ Ngoại Hầu – Cường Để đã lên tiếng thì lê dân bá tánh phải biết điều mà giữ im lặng.
– Còn muốn làm “Con sáo sang sông” thì trật tự đi nghen ông Sáu Tửng.
– Dạ.
Thanh Liên biết Út Thương rất thích ăn củ-lùn luộc nên đã chuẩn bị sẵn một tượng vun. Mợ Hai nấu với lá dứa nên thơm lắm, mà lại rất tốt cho sức khỏe.
JB Khải đặt câu hỏi với Thanh Liên:
– Anh nghĩ sao về những người thầy tu hoằng pháp nổi tiếng hiện nay?
Thanh Liên đáp liền:
– Họ đều đã phạm phải cấm giới mà Đấng Thế Tôn đã từng cảnh báo.
– Bằng chứng?
– “Cái chốt trống Anaka” trong Trường Kinh “Tương Ưng Bộ”, thuộc Nguyên Thủy Phật Pháp. Và một bản tương tự nội dung nhưng khác về cách diễn đạt mang tên “Phật Thuyết Đương Lai Biến Kinh” đến từ Đại Thừa – Bắc Tông. Và câu chuyện “Cô gái bán sữa gian lận” trong “Kinh Đại Bát Niết Bàn” cũng đã cảnh báo về vấn nạn này.
Longiuns Kiến ướm hỏi:
– Chẳng lẽ bên các vị không cho giảng về chủ đề thường nhựt sao?
– Muốn giảng sao cũng được, nhưng đừng nói đó là lời Phật dạy. Ý kiến chủ quan của bản thân mà hàm hồ tự nhận là di ngôn của Như Lai, hay mượn kinh điển hoặc sửa đổi ý niệm của Ngài để nâng cao quan điểm của bản thân, tội này sẽ bị đày xuống Địa Ngục Vô Gián.
Louis Quế gật gù:
– Hèn chi mỗi bận tôi hỏi anh về chuyện giữa Cha Mỹ với cô Xuân không khi nào anh lại lấy kinh điển bên anh ra trích dẫn.
– Sadhu.
JB Khải cau mày hỏi sấn tới:
– Nhưng “Mượn kinh điển” là sao?
Trì Thương trả lời thay:
– Tức là vầy: Họ lấy những kinh điển mà Như Lai đặt ra cho giới Tăng lữ đem đi làm thuốc lú đầu độc chúng sanh. Tăng lữ là bắt buộc phải buông bỏ, xả ly, không tích trữ vật thực hoặc hiện kim, siêng năng hành Thiền và Nhiếp Tâm,… có như vậy mới mong thành tựu được. Phật tử không bị Ngài buộc phải làm theo những điều trên, mà chỉ khuyến khích mà thôi. Ma Tăng rất ưa đem những bài kinh và câu kệ dành riêng cho Tăng lữ ra giảng cho chúng sanh, nhằm mục đích là kiếm tiền và khiến Phật tử trở nên bạc nhược, suốt ngày đầu óc cứ hướng về thế giới tâm linh…
Út Thương mắc cười quá nên xém chút nữa là bị mắc nghẹn.
– Mà từ thế giới tâm linh chuyển sang thế giới tâm thần cũng lẹ lắm. Hầu như Ma Tăng nào cũng đang bị dính mắc giữa hai thế giới đó hết.
Chờ tiếng cười ngớt xuống, Longiuns Kiến mới hỏi:
– Tại sao Phật Giáo lại suy bại ở Ấn Độ vậy các vị?
Chân Tâm nhoẻn miệng cười:
– Ấn – Hồi năm xưa “liên thủ” triệt Phật Giáo mà. Nhiều người hay thắc mắc tại sao Ấn Độ không thịnh hành Phật Giáo, nhưng không chịu tìm đọc lời giải đã được ghi rất rõ trong lịch sử tôn giáo và lịch sử phát triển của nước này.
Henrico Thạnh cười rộ lên:
– Vậy là họ mỉa mai bên anh chứ đâu có thực tâm tìm hiểu Đạo Phật?
Nhóm Tăng sĩ gật đầu.
JB Khải hỏi:
– Vậy thì tại sao người theo Đạo Phật lại có thể hành hương bên xứ Ấn?
Châu Lợi lên tiếng:
– Anagarika Dharmapala. Ông là người thứ hai đã có công truyền bá Phật Giáo ra thế giới, ngoài ra ông đã dành hơn ba mươi năm trời đi đòi lại từng Thánh tích của Phật Giáo mà Ấn Độ Giáo đã chiếm giữ suốt nhiều Thế kỷ liền; không có ông, Phật tử không thể nào đi hành hương bên xứ Ấn được đâu.
Longiuns Kiến thích thú hỏi thêm nữa:
– Người đầu tiên phổ biến Phật Giáo là Đại đế Ashoka?
– Phải.
Trước lúc nói tiếp, Châu Lợi nhấp môi một ngụm trà rồi mới trình bày như sau:
– Không có hai vị ấy, Phật Giáo không thể phát triển được như ngày hôm nay đâu. Đáng lý ra, Phật Giáo nên dành cho mỗi vị một ngày tri ân và tưởng nhớ ơn Hộ Pháp của họ mới đúng.
JB Khải hỏi:
– Tôi có thể biết rõ hơn được không?
Thanh Liên đáp:
– Sau khi trọn chữ Hiếu và nợ Đời, ông mới thôi làm Cư sĩ mà chính thức xuất gia. Ông trở thành Tỳ-Kheo được đâu mấy năm thì mất, năm đó ông đã bảy mươi mấy tuổi. Ông là người Tích Lan.
Longiuns Kiến hỏi:
– Các vị có bằng chứng nào mà nói bên Ấn Giáo coi Đức Phật là biến thân của Chúa Vishnu?
Châu Lợi đáp:
– Tụi tôi đã từng thấy một ngôi đền Ấn Giáo bên Úc Đại Lợi có đặt bức tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong tư thế tọa thiền ở cổng vào. Từ đó tụi tôi suy ra nếu họ không nghĩ như vậy thì sẽ không hà cớ gì mà đặt tượng của Ngài trong khuôn viên của Tam Thượng Đẳng Thần đâu.
JB Khải vừa lấy một cái bánh giấy vừa hỏi:
– Theo mấy anh thì Như Lai có thần thông không?
Đoạn Trần nêu quan điểm của mình:
– Có nhiều người nói Đức Phật không phải là Thần – Thánh nên không có thần thông, vậy nếu Ngài không có thần thông thì tại sao Ngài lại là Đấng Toàn Giác? Cái biết của Ngài vượt xa cái biết của thế gian, vậy nếu Ngài không có thần thông mà chỉ có trí thông minh như con người bình thường thì làm sao Ngài quán sát được rất nhiều thế giới và “hình thể” của chúng sanh ở các cõi đó mà giảng lại cho chúng sanh ở cõi này biết?
JB Khải hỏi:
– Anh nghĩ sao về Niết-Bàn?
Thanh Liên trả lời:
– Anh chưa từng qua Bhutan, tôi có nói cỡ nào đi chăng nữa anh cũng chỉ tin một nửa mà thôi, vì mắt anh chưa thấy thì sao mà anh tin tuyệt đối được? Thành thử Đấng Thế Tôn chỉ nói một cách khái quát về Niết-Bàn chứ không có đi sâu vô mô tả chi tiết; tôi còn nhớ hoài cái câu “Không bờ này – bờ kia” khi Ngài nhắc tới Niết-Bàn, chỉ vậy thôi.
JB Khải phản bác:
– Ủa? Tôi nghe miêu tả Tây Phương Cực Lạc đẹp lắm mà.
– Theravada không đề cập tới Tây Phương Cực Lạc hay nói rằng khi chết sẽ tái sanh về đó nếu niệm “A-Di-Đà-Phật”. Theravada chỉ nói con người sẽ có thể tái sanh theo dạng thức tương ứng mà họ đã phát khởi trong lúc sanh thời hoặc cuối thời mà thôi.
Longiuns Kiến hỏi:
– Đối với các vị, Đức Phật là gì? Có phải là một nhà hiền triết như nhận định của các nhà nghiên cứu và khảo cổ trên thế giới không?
Chân Tâm lắc đầu ba lần. Rồi trầm giọng trình bày:
– Chính cái sự muốn biến Đấng Thế Tôn thành một nhà hiền triết cũng là một dạng thường kiến thường thấy. Họ nói Ngài không có thần thông nhưng không giải thích được nếu là triết gia bình thường thì tại sao Ngài lại khuyến khích giới tu sĩ mau chóng tinh tấn tu hành để sớm ngày Niết-Bàn và những gì Ngài cảm nhận được xuất phát từ đâu?
Louis Quế vọt miệng:
– Trong “Áo Nghĩa Thư”?
Chân Tâm khoát tay:
– Không. “Áo Nghĩa Thư” chỉ là cái sườn, còn những gì Ngài nói lại là một cơ thể hoàn chỉnh và có sự sống. Giống như anh chỉ sống ở đây và chưa từng đi đâu, tôi cho anh cái giàn giáo, anh chỉ có thể xây một cái nhà kiến trúc Việt Nam rặt, chứ không thể nào xây được cái nhà theo kiểu nước khác được.
Louis Quế hỏi nữa:
– Nhưng anh định nghĩa, à không, anh cho rằng Đức Phật là gì?
Chân Tâm đáp liền:
– Là Đấng Toàn Giác.
Ignacio Cường nhíu mày hỏi:
– Tại sao?
– Đã gọi Ngài là Đấng Toàn Giác mà còn đệm thêm danh xưng “Nhà hiền triết”, có khác nào đi gọi “Giáo sư” và “Cử nhân” một lượt không? Cái đó rất là mâu thuẫn. Đấng Toàn Giác tạm hiểu là nắm được mọi khía cạnh trên các cõi thế gian, còn nhà hiền triết chỉ đi theo một hoặc vài khía cạnh và chủ nghĩa mà thôi…
Thanh Liên bổ sung:
– Giống như nói Đức Jesus Kitô vừa là “Đấng Cứu Thế” vừa là anh hùng vậy. Nghe có nghịch lỗ tai không các vị?
Longiuns Kiến nhếch miệng cười:
– Rất dị hợm.
JB Khải khó nhọc mở lời:
– Vậy mấy anh nghĩ có nên tin Như Lai có thần không?
Chân Tâm bật cười:
– Tin Ngài có thần thông để làm gì? Và không tin Ngài có thần thông để làm chi? Nâng Ngài lên cao hay ép Ngài xuống vừa tầm tay với của mình, cả hai cách nghĩ này đều không có lợi lạc gì cho việc tu tập hay rèn giũa bản thân hết.
Louis Quế cười cầu hòa:
– Có lẽ cách nghĩ sau là để bài trừ cuồng tín đó anh.
Chân Tâm lắc đầu:
– Đó là góc nhìn thường thấy của những người gọi Ngài là “nhà hiền triết”. Và như tôi đã trình bày ở trên, họ tự mâu thuẫn với chính bản thân họ một cách rõ ràng. Đôi lúc, họ còn mắc lỗi ngụy biện luôn…
Louis Quế bặm môi trước khi hỏi:
– Là sao anh?
– Thì hễ ai không đồng tình với họ là họ quy chụp người này mê tín dị đoan, cuồng tín, Vô Minh, nghe ông này – ông kia giảng tầm bậy tầm bạ,… Khi anh cho rằng ai có những dấu hiệu trên, anh phải trình bày được thế nào là đúng và thế nào là sai, chứ không thể phán một câu gọn lỏn như vầy.
– Vậy nếu có ai nói anh nói tào lao thì anh nghĩ sao?
– Tôi đâu cần họ tin nên đâu có bận tâm nghĩ về cảm xúc hay lời nói của họ.
JB Khải hỏi:
– Anh học ai vậy?
– Tôi học theo Đấng Thế Tôn.
Út Thương đã lẻn lên nhà trên mà ghi hình trực tiếp buổi đấu “Liên Minh Huyền Thoại” của mình. Út Thanh nán lại được đâu mười phút nữa cũng chuồn lên nhà trên để chơi game với thằng bạn nhỏ tuổi. Ban nãy hai đứa mua được một thùng Coca – Cola bản kỷ-niệm ” League of Legends”, uống ngon hơn loại thường nhiều, bây giờ phải đem ra khoe với khán giả mới được.
Chú Thương chạy xe đạp qua đây, đem theo một thùng-mủ đựng bánh Mochi nhân sầu riêng, xoài tượng và nhân whipped cream.
– Má biểu trời nóng uống trà bạc hà mới đã khát nên bắt tao đem qua cho mày nè.
– Cảm ơn anh Hai.
– Khách sáo quá mày ơi.
Kiến Hữu mừng rơn với tay lấy mấy cái bánh Mochi, rồi xuýt xoa vài tiếng trước khi lủm.
Thanh Liên dòm JB Khải mà cười hỏi:
– Tôi hỏi anh một câu…
JB Khải gật đầu.
Thanh Liên mới hỏi:
– Anh là người trong Đạo, anh biết về những thuật ngữ trong Đạo nhiều hơn hay nhà nghiên cứu biết nhiều hơn?
– Có cái họ đúng, có cái tôi sai chớ. Đâu thể nào nói bên nào biết nhiều hơn bên nào được.
– Cho nên tụi tôi không đồng tình cách gọi “nhà hiền triết” mà các nhà nghiên cứu dành cho Đức Phật. Tôi xin được phép lặp lại một lần nữa, đối với tụi tôi, Ngài ấy là “Đấng Toàn Giác” chứ không phải là một triết gia; còn ai thích coi Ngài là một triết gia thì cứ tự nhiên, quan điểm của mỗi bên mỗi khác mà.
Trì Thương nói một cách úp úp mở mở:
– Nếu như sau này có dịp, tôi sẽ cho anh đi gặp một người từng thấy được Tiền Kiếp, du hành Địa Ngục và đoán trước tương lai của bản thân lẫn mọi người xung quanh. Và người này chưa chứng Quả Vị gì hết.
Chân Tâm nói:
– Và, xin nhớ giùm, Đức Phật là người Nepal chứ không phải Ấn Độ. Nếu muốn nói Ngài ấy là người Ấn Độ thì phải thêm hai chữ “cổ đại” nữa.
JB Khải hỏi nữa:
– Còn bằng chứng nào làm anh tin Đức Phật có thần thông không?
– Trong các tích truyện Pháp Cú nói riêng, và trong Phẩm Kinh nói chung, tôi thường thấy Ngài ấy thị hiện thần thông và khai nhãn cho các chúng sanh có căn tu hành. Nếu như Ngài ấy không có thần thông, mà chỉ giỏi tài hùng biện để thuyết phục người ta đi tu, anh nghĩ coi được mấy người tin mà chịu xuất gia và Phật Giáo có áp đảo nổi những tôn giáo cùng thời ở Ấn Độ cổ đại không?
– Ờ há?
JB Khải vừa rướn người để múc đá bỏ vô ly trà của mình vừa hỏi:
– Có thể kiểm chứng ở đâu?
Chân Tâm trả lời:
– Về hiện tượng “Hào quang sáu màu” của Đấng Thế Tôn, nên tra cứu như vậy cho dễ tìm. Còn về sách, do anh là người ngoại Đạo nên tôi chỉ giới thiệu một Kinh thôi, đó là “Quán pháp Patthana”.
JB Khải đòi thêm nữa:
– Còn nữa không?
– “Ratana Sutta – Kinh Châu Báu”. Nếu như anh có đến Ấn Độ, nói cụ thể là tàn tích thành Vesali – Tỳ-Xá-Ly, sẽ thấy Thánh tích Phật Giáo chứng minh bài Kinh này là có thật.
Thanh Liên chợt rẽ hướng:
– Bây giờ tôi có nói tới thụt cả lưỡi anh cũng vẫn cho tôi là nói xạo để dụ anh theo Đạo phải không?
JB Khải gật đầu.
Thanh Liên nói tiếp:
– Bên Đạo anh, thông qua Ông Moses, rồi tới Thánh John the Baptist, sau nữa là Đức Jesus Kitô, và lần hồi là các vị Thánh khác đã xuất hiện để làm chứng nhân cho sự hiện diện của Đấng Jehovah. Tôi thành tâm xin lỗi nếu tôi diễn giải sai lệch ý nghĩa các hình tượng bên bổn Đạo của anh.
JB Khải lắc đầu cười hiền:
– Không sao đâu. Anh nói tôi hiểu mà. Phải có một phép lạ, một sự nhiệm mầu, một sự khai thị, một sự cứu rỗi, một sự bác ái vô tận nào đó thì đức tin mới phát triển mạnh mẽ được. Đặc biệt, Giáo chủ của tôn giáo đó phải hội tụ đủ những yếu tố trên thì nền móng của đức tin mới kiên cố được. Thành thử, các anh mới tin Đức Thích Ca Mâu Ni có thần thông.
Longiuns Kiến hỏi:
– Nhưng Đức Phật không phải Thần – Thánh phải không?
Châu Lợi gật đầu:
– Đúng. Ngài ấy không phải là Thần – Thánh. Và Thần – Thánh bên Phật Giáo không có ban phước hay giáng họa cho ai hết, họ chỉ gia hộ cho Thiện Nam – Tín Nữ mà thôi, “gia hộ” ở đây có nghĩa là “bảo vệ” và “che chở”. Nếu anh trúng số độc đắc là do Phước Báu mà anh có; và nếu anh đói rách, bần hàn là do Nghiệp – Quả của anh đưa đẩy, nhưng anh có thể biến cái khởi điểm tệ hại thành một tương lai sáng sủa và đẹp đẽ bằng chính sự Thiện Tâm, đức Hiếu Đễ và lòng Từ – Bi – Hỷ – Xả của mình.
Louis Quế bật cười:
– Chứ không phải là đi cung phụng thầy chùa?
– Phải. Cho cơm ăn, nước uống và nhu yếu phẩm để họ sống thôi, đã đủ Phước lắm rồi. Đừng nghe Ma Tăng xúi giục mua xe sang, sắm điện thoại mắc tiền hay trang hoàng nơi ăn – chốn ở cho đám đó như cái cung đình Huế.
Longiuns Kiến cười tủm tỉm:
– Cũng giống như câu, “Vinh danh Thiên Chúa trên trời – Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
Trì Thương che mắt trái:
– Nhiều người quan điểm rất kỳ cục rằng: Sao Phật không vật chết kẻ ác hay Trời – Đất có linh thiêng sao không giết loài bạo tàn. Tôi xin lặp lại một lần nữa, người trả Báo cho người xấu là chính họ và máu mủ ruột rà cũng như thân bằng quyến thuộc của họ; Thánh – Thần hay Chư Phật không can thiệp vô sự trả Báo đó.
JB Khải nêu câu hỏi:
– Thí dụ?
Trì Thương đáp:
– Một người tham nhũng của công có đứa con bị nghiện ma túy và suốt ngày chỉ biết hưởng thụ ăn chơi đàng điếm. Đó gọi là Quả Báo.
Châu Lợi góp lời:
– “Mahadana – Đại Đàn-Na”, bất cứ ai theo Đạo Phật cũng nên đọc bài “Kinh Năm Đại Thí” này để có cách bố-thí đúng đắn và sát với lời dạy của Như Lai nhứt. Ngoài ra, còn có “Những lợi ích của việc cúng dường – Dananisamsa Sutta” thuộc “Kinh Tăng-Chi Bộ, phần An, số Năm – Pancaka-Nipata”.
Longiuns Kiến hỏi:
– Theo các vị, Ma Tăng phạm tội gì?
Đoạn Trần đáp liền:
– Hãy đọc “Kinh Sa-Môn Quả – Samannaphala Sutta” là sẽ thấy chúng phỉ báng Chánh Pháp ra sao và làm ngược lại lời dặn của Đấng Thế Tôn như thế nào.
Đọc đâu được một đoạn, nhóm Linh mục và hai Mục sư ngửa mặt than trời.
Hai Nghĩa bấy giờ mới lên tiếng:
– Sao quá trời luật lệ khắt khe vậy các vị?
Chân Tâm gật đầu:
– Do đó tụi tôi mới được coi là “xuất thế”, còn bên các vị là “nhập thế”.
Thanh Liên tự nhiên đổi giọng buồn xo:
– Phật Giáo ngày nay đã bị bầy đàn Ma Vương chiếm giữ và quậy nát rồi. Nên khi hay tin bên Cơ Đốc Giáo có nhiều vụ không đủ quy cách mà vẫn được truyền chức Linh mục, tôi buồn lắm. Tôi không muốn Công Giáo hay Tin Lành đi vào vết xe đổ của Phật Giáo: Chỉ vì dễ dãi thâu nhận người mà Phật Giáo ngày nay đã bị biến thành hang ổ của Thiên Ma Ba Tuần.
Hai Nghĩa bóp vai Thanh Liên mà rằng:
– Chúng tôi sẽ cố gắng để chuyện đó không xảy ra.
Thủy Diệu tâm tình:
– Tin Lành hay Công Giáo đều là Cơ Đốc Giáo mà, đều là con của Thiên Chúa Toàn Năng cả, xin đừng xung đột với nhau mà để cho môn đệ của Quỷ Satan hỉ hả, thỏa lòng.
Longiuns Kiến cười mà đôi mắt đã ướt:
– Ờ, đều là Kitô hữu hết, đều là Cơ Đốc Nhân hết.
Hai Nghĩa chợt hỏi:
– Mấy anh nghĩ có nên ly dị không?
Thanh Liên trả lời:
– Trước khi đi vào câu trả lời, tôi xin phép dài dòng văn tự một chút…
Chuyện rằng:
Tôi đã từng chữa trị bất thành cho một bịnh nhân nam mắc hội chứng chống đối xã hội – Anti Social. Người này dòm đâu cũng thấy kẻ thù và phường lường gạt, thậm chí đến vợ con cũng nghi ngờ đang giấu giếm mình chuyện chi. Ở Mỹ, nếu như không có bảng “Right Lane must turn right”, anh được quyền chạy thẳng; ngoài ra, trừ khi có bảng “No turn on Red”, anh được quyền quẹo phải khi đèn đỏ nếu an toàn. Rõ ràng rồi chứ, kể tiếp nha? Thì đây, cứ hễ ai đậu bên lane đó chờ đèn xanh để chạy thẳng, trong khi ông này muốn quẹo phải, là ông này lại mạt sát người ta bằng những lời lẽ rất ác độc và nhiều lần còn trù người ta chết nữa; nhưng nếu tình huống ngược lại, thì ông này lại im phăng phắc. Rồi ai mà chạy bậy – đậu xe ẩu là ông này lại làm y hệt như vậy, và nếu người sai là ông này thì ông này không những không hề nhận lỗi mà còn kiếm cớ biện minh cho mình. Trong nhà, hễ vợ con sai là ổng thiếu điều muốn chôn sống họ, nhưng ngược lại… tự biết rồi ha?
Không cần Thanh Liên nói nữa, ai nấy đều đã hiểu hết rồi.
– Vậy nên ly dị cho rồi. Chứ sống mà như Hỏa Ngục vậy… – Năm Tường khó nhọc mở lời.
Thanh Liên nhìn Hai Nghĩa mà cười biểu:
– Tỷ như vợ chồng anh thôi, chỉ có khắc khẩu vì “Tình Bắc – Duyên Nam” mà đã cảm thấy ngột ngạt, huống hồ chi là…
Hai Nghĩa ra vẻ đã hiểu.
– Không phải lúc nào giúp người ta cứu vãn hôn nhân cũng là đúng đắn đâu anh. Thành ra, bên Đạo Phật tuy rất coi trọng hôn nhân nhưng cũng không bó buộc nó, hết Duyên thì chia tay, chỉ vậy thôi.
– Chứ chẳng lẽ đày ải người ta sống với con quỷ hay bà La-Sát trọn đời để giữ lề thói bổn Đạo? – Chú Thương phì cười.
Cuộc nói chuyện đến đây là chấm dứt.
Trên đường tiễn chân nhóm của Hai Nghĩa, nhóm Linh mục đã cùng chàng Mục sư thảo luận về những chủ đề trong Thánh Kinh, hiện vẫn còn đang gây tranh cãi vì khác quan điểm giữa Tin Lành và Công Giáo. Năm Tường sẵn dịp hỏi ông Cha Dòng về vấn đề truyền Giáo và giảng dạy, cũng như nên tổ chức những khóa thi như thế nào để các em và những người tân tòng thực sự “Mến Chúa – Yêu người” chứ không phải là bị ai ép buộc hết. Nhờ cuộc đàm đạo ấy mà quãng đường khá xa bỗng chốc hóa thật gần.
Trước lúc chia tay, Longiuns Kiến mời mọi người cùng hợp ca một bài Thánh Ca nào đó bằng tiếng Anh, vì có nhiều bài không phân biệt rõ Giáo lý giữa Lutheran và Catholic.
Stephen Đoàn giới thiệu:
– Con cảm thấy bài “One little candle” khá hay đó Cha. Con đã từng nghe qua giọng ca của Perry Como. Đây không phải Thánh Ca, mà nhạc Vào Đời thôi.
– “Một cây đèn cầy nhỏ”? – Năm Tường bật cười. – Vừa hay tôi có dạy các em bài này.
Kiến Hữu nhận phần khảy đàn guitar. Anh vừa tấu nhạc vừa đưa mắt ngó vào trong tịnh thất lần cuối. Không biết nơi đây có thực sự là chỗ tu hành hay là chốn của các “Hồn Ma Biên Giới” nữa.
– Rồi, xong. – Hai Nghĩa vừa nói vừa mở cửa xe. Anh ngồi ở băng nhì cho thoải mái.
Nhóm tu sĩ Công Giáo nói vài câu chúc thượng lộ bình an rồi quày quả đi xuống sân sau.
Đợi chiếc xe của nhóm Hai Nghĩa đi khuất rồi, Longiuns Kiến mới nói mấy đứa con:
– Thầy rất tiếc khi bên mình mất đi Mạn-Hòe Anh. Âu đó cũng là ý Chúa.
…
Những người tại thế xuống nhà thím Huê để ăn các món cần phải sát sanh trực tiếp. Trưa nay Thanh Liên đãi Tăng đoàn một bữa đồ ăn liền ở một nhà hàng Á – Âu trong vùng Anh Vũ Sơn; chủ quán là cư sĩ tại gia nên có phòng riêng dành cho nguyên nhóm, do bị giựt tiền gởi ngân hàng nên gia chủ sống không bằng chết, vì vậy Thanh Liên mới ghé đây ăn uống để ủng hộ, chứ nếu nói cho tiền là gia chủ không chịu nhận đâu.
Ngôi nhà mà thím Huê mướn ở là dạng nhà sàn nửa trên – nửa dưới: Tức là nửa ở trên bờ và nửa ở trên sông. Trước nhà có hàng rào đậu biếc và cái cổng làm từ tre trên có mái vòm mây uốn để trồng bông giấy. Khoảng sân trước dù nhỏ xíu nhưng thím Huê vẫn ráng dành một góc mà ương vài bụi sả, nghệ, gừng, ngải-bún, riềng, hành-lá, hẹ, ớt hiểm, chanh, hạnh, rau thơm, rau răm, rau om, rau quế, ngò-gai, ngò-rí, thì-là, húng-lủi, lá-dứa, lá-cẩm, lá-lốt, nha-đam, đậu-rồng và đậu-bắp; bà con chòm xóm hễ thiếu rau nêm là lại chạy qua í ới hỏi xin, không có lần nào mà thím từ chối hết.
Trưa nay mọi người sẽ ăn món cháo lươn nấu với khoai môn và đậu xanh, lẩu mắm nấu với cá linh, thịt heo quay, tép, mực, bông súng và các loại rau khác, ếch chiên bơ và khổ qua – cà – ớt. Biết Vệ Thương bị dị ứng gia vị và những món nặng mùi nên mợ Hai, chú Thương và Yến Thanh, mỗi người làm một món mà đãi nó; mợ Hai thì làm sườn nướng mật ong, Kim Thương thì làm mỳ Lasagna sốt kem và bơ tỏi kiểu Ý, còn Yến Thanh thì làm gà hấp muối ớt và rượu Mai Quế Lộ.
– Kỳ này chắc ông phải ngồi ba ghế quá, ông mập. – Quế Trân vỗ vỗ cái bụng hoài thai muôn niên của Khắc Xương mà bẹo.
– Kệ. Tôi ăn nhiều tôi lời, bà ăn ít thiệt thân bà.
Kiều Xuân làm món bò lá-lốt cho người mà thương. Đồng lương ông Giáo không có là bao nên lâu thật lâu chàng mới ăn có một lần. Lần trước chàng bỏ xứ xuống Kiến Hòa náu thân, nàng có đãi một bữa, và chàng đã ăn hết trơn hai mươi mấy xâu một cách không khách sáo.
Stephen Đoàn cười mà ánh mắt buồn hiu:
– Cảm ơn Xuân nghen.
Ignacio Cường đang ngồi chồm hổm nơi hàng ba nhà sau mà ngó lên trên đọt cây bần. Trời đã qua trưa mà bữa chánh chưa xong, cũng may sáng ra anh đã tự giác tìm đường cứu thân rồi. Bỗng nhiên có ai đó đập nhẹ vào lưng anh, giựt mình quay lại nhìn thì thấy đó là Yến Thanh, mỗi tay anh ta cầm một dĩa đồ ăn thơm phức.
– Nghe đâu anh thích ăn mực nên tôi làm món mực nhồi củ sen và gỏi bạch tuộc cho anh nè.
Y-Nhã Cường dụ dự không muốn nhận.
– Chê gớm hổng ăn hay gì?
– Cảm ơn.
– Công nhận bị chặt chân mà ngồi chồm hổm được, hay thiệt.
Bấy giờ Y-Nhã Cường mới sức nhớ ra cái chân trái đang bị thương. Anh nén đau mà ráng hết sức vịn cột đứng dậy, rồi thất thểu ra ghế bố ngồi duỗi thẳng chân. Mải bận tâm tới chuyện của Stephen Đoàn và Giáo xứ nên anh chẳng còn nhớ đến sự đau yếu của mình. Yến Thanh đã đặt hai dĩa đồ ăn và rổ bánh phồng tôm trên cái bàn xếp chân cao lồng vào phần thân dưới của cái ghế bố; cách sắp đặt của người Cơ Đốc Nhân này làm cho chàng Linh mục nhớ tới nhà thương quá chừng.
– Uống gì tôi làm cho mà uống?
– Đá-me.
– Okay. Ăn lẹ đi. Bánh phồng tôm còn âm ấm nên giòn ngon lắm.
Sáu Quới lại mở nhạc lên nghe. Lần này ông Thầy mở bài Tân – Cổ Nhạc “Dưới chân Đức Mẹ” của soạn giả Xuân Phát do Ngọc Giàu ca, đặng cho yên thân với ông Cha Cọp.
Vì nấu quá nhiều món mà bếp nấu chỉ có ba lò nên phải tới bốn giờ chiều mới nấu xong hết thảy. Mọi người chia thành từng nhóm nhỏ mà thưởng thức mâm cơm thịnh soạn. Ông Xã Trưởng thấy nhà thím Khuê bữa nay sao đông người quá nên cử hai Địa Phương Quân xuống thám thính rồi dìa trình lại với ổng; đứng thập thò đâu được một lúc, Vệ Thương thấy tướng “Áo vũ cơ hàn” quá tưởng đâu dân cùng khổ nên ngoắt lại cho con gà hấp muối và một dĩa xôi vun chùng, hai người lính quèn sợ đem về thì sẽ bị chia phần với ông Xã nên ở lại nhậu luôn, có gì đổ thừa ở lại để thám thính tình hình và “đi sâu – đi sát vào lòng địch”.
Chừng trời đã nhá nhem tối, hai chàng mới trở về đồn.
– Hai thằng lính của ông Xã, tục gọi là Xã-Xệ, chuyên môn đi rình nhà người ta để lập công. – Thím Huê vừa nói vừa bóp ổ khóa cổng rào.
Ngoại trừ Vệ Thương, Ignacio Cường và Stephen Đoàn, những người không nấu ăn đi rửa chén và lau dọn bàn.
Mọi người lại cùng chơi lô-tô, nhưng với thể lệ mới: Ai thua không chung tiền phải bị quẹt lọ nồi trừ nợ. Nhiều người cao niên trong xóm ham vui cũng qua làm vài ván với họ.
Đến chừng hơn tám giờ, bà con xóm diềng mới về nhà. Người nào cũng được thím Huê biếu một hộp đồ ăn thật ngon và vun chùng.
Y-Nhã Cường uống xong cử thuốc tính gọi mọi người trở về núi nhưng chưa kịp mở miệng nói năng gì thì đã nghe Longiuns Kiến biểu rằng sẽ ở lại đây chơi tới khuya, vì ở trên núi chán quá. Biết Thầy quanh năm sống trong nhà Dòng nên Đức Cường cũng không nỡ bác bỏ, anh đành ra hàng ba mà ngồi ngắm trăng sao một mình.
Không biết ai nhắn tin cho JB Khải mà chàng ta hấp tấp rời khỏi bàn ăn rồi chạy vụt ra sân trước bấm số gọi điện thoại.
Kể từ lúc biết được JB Khải có dính mắc với kẻ mạo danh Cha Thành nên Y-Nhã Cường luôn để mắt người bạn đồng tu. Thành thử ra, vừa thoáng thấy cử chỉ khác thường của Tấn Khải, Đức Cường liền sửa soạn hành trang đặng mà bám theo.
Henrico Thạnh níu tay Ignacio Cường mà hỏi:
– Đi đâu vậy Cường?
– Đi mua đậu phộng ăn.
– Giờ này còn phộng với phiếc cái gì? – Longiuns Kiến cản không cho đi. – Còn mày nữa, đi đâu vậy Khải?
JB Khải đáp:
– Con lại nhà bạn chơi, thưa Thầy. Có muốn đi chung không Cường?
– Một lát nữa tôi mới đi. Với lại cái bụng đang đau nên nhắm coi đi nổi không mới đi.
– Có cần tôi mua giùm không?
– Không. Biết đâu ra tới chợ tôi đổi ý thì sao?
Khắc Xương hùa theo:
– Phải đó. Mình mới biết mình muốn ăn gì. Như bữa hổm tôi định mua bánh bao chỉ, chừng thấy chỗ bán cút ngon qua nên đổi ý ghé lại mua luôn.
JB Khải nghe vậy thì cười mỉm.
Ignacio Cường cũng mỉm cười theo.
Longiuns Kiến nhận thấy thái độ “giương cung bạt kiếm” ngấm ngầm của hai đứa con thì liền nghĩ đến chuyện này có liên quan tới thằng khứa giả mạo Joseph Thành. Nhưng ông đứng về phe của Đức Cường nên thuận nước đẩy thuyền luôn:
– Ừ, sẵn mua cho tôi hai bịch đậu phộng rang. Nếu có bánh tráng trộn thì mua giùm ba hộp. Nè, tiền nè.
JB Khải cười khẩy. Rồi lầm lũi dắt xe ra ngoài sân rồi chạy đi mất hút.
Ignacio Cường không vội bám theo JB Khải. Anh đã có kinh nghiệm đi rình thằng khứa kia nên dư sức biết mấy cái chiêu “Giương Đông – kích Tây”, “Đả thảo kinh Xà”, “Điệu Hổ ly sơn”,… Thể nào Tấn Khải cũng núp ở đâu đó rồi lén bám đuôi ngược anh. Cho nên, bây giờ anh phải làm bộ như không muốn đi, ráng đợi chừng nửa tiếng rồi hẵng hành động cũng chẳng trễ một chút nào.
Quả đúng như chàng Cha Cọp dự đoán, người bạn đồng tu của anh đã đứng nán lại mà chờ anh ở đầu đường. Chừng đợi hơn nửa tiếng rồi mà vẫn không thấy tăm hơi của anh đâu, và cũng sợ trễ hẹn, anh ta mới phóng xe đi.
Con hẻm tăm tối ấy là địa bàn của giới mại dâm. Y-Nhã Cường đang bị thuốc trị nhiễm trùng huyết hành mà còn ngửi thấy mùi phấn son nực nồng nên càng mắc ói tợn. Đi đến đâu, anh cũng nghe thấy tiếng mời chào lả lơi ong bướm; nhưng thấy sắc mặt như Chung Quỳ của anh nên đứa nào đứa nấy tự giác nín thinh, vài đứa đợi anh đi rồi mới dám đốt phong long xả xui.
Đến số nhà 203, JB Khải đột ngột dừng bước rồi tông cửa ập vào.
Ignacio Cường ngó thấy có mấy tên canh gác trước cửa nhà nên không thể bước vô. Mà quanh đây toàn quán cóc “đèn không muốn sáng” nên anh càng không thể ngồi đó uống nước chờ. Đứng chần chừ, dụ dự một đỗi, anh tặc lưỡi chọn đại quán bi-da tương đối “sáng sủa” ở một cái ngã ba trong hẻm; từ đây đến đó ước độ mất năm – mười phút, đó là với người lành lặn hai chân, còn anh thì phải mất trên mười lăm phút.
Trong quán bi-da tĩnh lặng như Thiền đường, chỉ có hai cái bàn là có khách, mà người chơi hết ba người là nhân viên rồi. Ignacio Cường gọi một bịch nước ngọt “Red Bull – June Berry”, rồi kiếm cái ghế gần cửa chính để dễ bề nhìn xuống con lộ đó.
Đặt bịch nước tăng lực xuống bàn xong, người nhân viên xăm trổ đầy mình e dè bắt chuyện:
– Anh ở đâu tới vậy? Mà sao tôi thấy mặt mày anh quen lắm.
Ignacio Cường nhướng mày lên khúc một khúc:
– Mới tới lần đầu. Quen là quen làm sao. Nói nghe thử coi?
Biết gặp thứ dữ, người nhân viên gãi đầu cười gượng:
– Hồi trước tôi có chung băng chở hàng ra miền Trung với một người đàn anh tên là Đức Dũng, hay gọi là Dũng “đầu đinh” và Hai Dũng. Kể từ ngày ảnh cưới vợ, ảnh tuyệt giao với tụi tôi luôn, đến nay cũng được mấy năm rồi. Tưởng đâu bà con thì cho tôi gởi vài lời hỏi thăm ảnh – chỉ với mấy bé.
Y-Nhã Cường nhếch miệng cười:
– Người giống người là chuyện thường tình. Nhưng trong giới này đừng có lẫn lộn, kẻo sanh sự – sự sanh vô duyên lắm.
Biết người khách mặt mày đầy sẹo không muốn tiếp chuyện với mình nên người nhân viên giả lả luôn:
– Ở, anh dạy chí phải. Mấy vụ chém lầm giải quyết hậu quả mệt bỏ xừ. Cái thằng mình muốn xử thì không chết, còn cái đứa hổng liên quan thì lại vong mạng thay.
Ngoài đường ồn ào bao nhiêu thì trong quán buồn hiu bấy nhiêu. Các khách chơi và nhân viên đều thinh lặng thụt bi-da, không ai khen cũng chẳng ai chê những đường cơ nào hết, mọi lời nói được thể hiện thông qua ngôn ngữ hình thể, tỷ như ai cần cái gì thì chỉ vô cái đó, rồi vậy thôi, dường như âm thanh của loài người là điều cấm kỵ ở chốn này vậy. Có lẽ những buổi Tĩnh Tâm mà Ignacio Cường và Stephen Đoàn tổ chức cho Giáo xứ còn không im tiếng được như vầy. Mới ngồi ở đây một lát mà chàng Cha Sở có cảm tưởng mình đã mất đi khả năng nói chuyện, nếu ngồi lâu hơn nữa chàng tin rằng mình sẽ biến thành một vật trang trí vô tri vô giác.
Đã hơn một tiếng đồng hồ mà chưa thấy JB Khải trở ra, Ignacio Cường sốt ruột đứng phắt dậy mà nhoài người đưa mắt ngó về hướng đó.
– Anh đang đợi ai hả? – Một người khách mặc áo thun ba lá vừa châm thuốc hút vừa đánh tiếng hỏi Đức Cường.
– Anh có biết số nhà 203 làm ăn ra sao không?
– 203? À… Chỗ của đám lại cái – bóng gió đây mà. Rồi sao?
– Tò mò thôi.
Rồi chừng như sợ người khách hiếu chuyện sẽ phát giác ra điều chi bất thường ở mình mà gây tổn hại đến JB Khải – Cả về thể xác lẫn danh dự của anh ta, Ignacio Cường giả vờ nói rằng chiếc xe ôm mình đặt đã tới nên xin phép cáo lui.
– Khoan đi đã!
– Gì nữa đây?
Nhưng người khách ấy ậm ừ mãi mà không thốt nên lời.
– Rồi xong phải không?
– Ờ.
Tài-xế xe ôm vừa hay là cảnh sát chìm, ngó bộ dạng bặm trợn và thẹo đầy mình của người khách thì mừng rơn vì tưởng đâu sắp phá được chuyên án nan giải kia.
– Đi đâu anh?
– Lên nhà thờ…
– Gì kỳ dạ?
– Sao kỳ? Kỳ là kỳ chỗ nào? Đâu nói tôi nghe thử coi.
– Tôi không nghĩ một Giáo dân lại đến đây…
– Bớt nhiều chuyện.
Sợ rằng sẽ vuột mất đầu mối quan trọng, viên cảnh sát chìm đành ngậm tăm mà chở tay giang hồ đó lên nhà thờ ấy.
Còn cách nhà thờ ấy chừng nửa cây số, tay giang hồ đó bắt chàng cảnh sát dừng xe.
– Tôi đi mua đậu phộng, chứ có phải đi mua ma túy đâu mà anh cười hớn hở như sắp ra quân bắt tội phạm vậy?
– Đâu có, đâu có đâu…
– Nếu là cảnh sát thiệt thì ráng về rèn lại kỹ năng đi. Lớ quớ có ngày người thân bị vạ lây vì anh đó.
Trong lúc chờ người khách trở ra, viên cảnh sát nhắn tin báo cho đồng đội hay rằng mình đã bị lộ rồi.
Bà bán hàng dòm thấy vẻ ngoài hung thần ác sát của Y-Nhã Cường thì vừa bán vừa run.
– Ngoại bán cho con năm lít đậu phộng nấu và hai bịch đậu phộng rang loại một ký.
– Đây cậu.
– Khỏi thối.
– Vậy cảm ơn cậu nhiều nhen.
Ignacio Cường không đi ra xe liền, mà đi kêu mấy đứa nhỏ và người già bán vé số lại quán ăn tối. Thanh Liên đưa cho anh mười hai ngàn đồng, và dặn hễ thấy ai khổ thì làm ơn giúp người đó giùm ảnh.
Bà bán đậu phộng cho chàng Cha Sở run giọng hỏi:
– Con cho ngoại ăn ké được hôn?
– Dạ được.
Trả tiền cho mấy chủ quán xong xuôi, Y-Nhã Cường mới đi ra bãi đậu xe mà người tài-xế xe ôm kỳ khôi đó đang chờ mình. Anh không biết anh ta thích ăn gì, nên mua đại một hộp vịt quay, một bịch cơm trắng và một hũ cải chua kèm một ly cà-phê ngọt vừa.
– Cho.
Viên cảnh sát ngó sững tay giang hồ một đỗi, mới can đảm nhận lấy phần ăn và ly nước:
– Cảm ơn anh.
Ignacio Cường vừa cài nón bảo hộ vừa đưa mắt trông ra con đường đang bị kẹt xe, thầm nhẩm tính quãng đường về nhà mất bao nhiêu thời gian nữa đây.
– Anh tên gì?
– Tôi tên Cường. Đói thì ngồi đó ăn luôn đi, tôi đợi được.
Viên cảnh sát cũng muốn tìm cơ hội thăm dò tâm tình của tay giang hồ quái đản nên gật đầu cái rụp. Sáng giờ hổng có đứa nào cho anh hột cơm, sắp rã ruột tắt hơi chết rồi vẫn không được sếp đoái thương cho nghỉ xả-hơi một chút.
– Khụ…
Tay giang hồ đó đang lần chuỗi Mân Côi và lầm rầm đọc Kinh bổn Đạo. Hành động ấy đã khiến viên cảnh sát bị sặc cơm. Bây giờ anh mới sực nhớ ban nãy anh có thấy quanh hông người khách có vật gì cồm cộm như tràng hạt, nhưng anh lại tưởng lầm là đạn hoa cải xâu thành dây, thành thử tay lái không vững một xíu nào.
– Tôi chở cũng nhiều người rồi nhưng chưa từng thấy ai ngộ như anh.
– Do mắt anh tự nhận xét tôi ngộ thôi, chớ tôi có gì ngộ hơn anh đâu.
Một con mèo cái bụng mang dạ chửa bước lại xin ăn.
– Đừng có cho nó ăn đồ của anh, để tôi đi mua cái khác cho.
Song viên cảnh sát vẫn bỏ cái cù lẳng xuống cho con mèo hòng giữ chân nó trong lúc chờ người khách kia ra đây.
Y-Nhã Cường mua cho con mèo một hộp cơm cá kho thơm nức mũi và một chai nước suối. Con mèo vục đầu vô hộp cơm mà ăn lấy ăn để, đến nỗi cái bụng bầu cũng rung rinh theo, còn cái đuôi thì dựng đứng lên thẳng tắp; chưa đầy mười phút mà hộp cơm đã vơi hơn phân nửa, con mèo no bụng rồi bèn mon men lại gần chai nước suối mà kêu “Meo… meo” mấy tiếng, ra vẻ muốn uống nước.
Và trước sự ngạc nhiên của viên cảnh sát, người khách ẵm con mèo đã no bụng lên mà giúp nó uống nước. Có lẽ người này không phải dân anh – chị mà chắc là một khách làng chơi ham vui mà thôi.
– Anh không lên nhà thờ nữa sao? Cứ cà-rịch cà-tàng như vầy chắc đến Tết Congo mới tới.
– Người ta cũng không thích tiếp tôi đâu mà sợ trễ nải.
– Mà sao mặt mày anh thẹo không vậy?
– Bị người ta chém hội đồng. Huốt chết. Cái chân bị cà-thọt luôn.
– Suốt đời hả?
Y-Nhã Cường bật cười mà lắc đầu nguầy nguậy:
– Năm năm là cùng. Còn Chúa thương thì ba năm là “Tung cánh chim bay về tổ ấm…” liền.
Bấy giờ viên cảnh sát mới thấy mặt dây chuyền Thánh giá trên cổ của người khách có đôi má lúm đồng tiền rất duyên. Lai lịch của người này còn bí hiểm hơn thân thế của tên chủ mưu đường dây mổ cướp nội tạng.
– Tôi ăn xong rồi. Có lên nhà thờ không hay là về nhà anh?
– Lên. Tôi lên đó thì anh ra về. Tôi không muốn anh biết chỗ ở của tôi.
– Có thể dối lòng cho tôi bớt đau tim một chút không?
– Không.
Vậy là cuộc gặp gỡ giữa viên cảnh sát và vị Cha Chánh xứ đến đây là chấm dứt. Trước lúc trở về căn cứ họp mặt đồng đội, viên cảnh sát ngoáy đầu nhìn người khách, rồi thất thần trông sang Cha Sở, tự dưng anh hồ đồ nghĩ người khách kia mới là Linh mục và ông Cha Sở, đang khoe khoang thành tích mà bản thân đã làm được cho Giáo xứ, là dân ngoại…
Người chở Ignacio Cường về lại Cô Tô là tài-xế xe ôm hôm bữa đã chở Stephen Đoàn. Biết gia cảnh anh ta bần hàn nên chàng Giáo sĩ tứ tuần đãi cả nhà anh ta một bữa hủ tíu đêm; quán ấy bán gần núi Sam, giá cả phải chăng mà lại rất ngon nên thực khách đông dữ lắm.
Thanh Liên ngồi đợi Ignacio Cường trong tư thế tọa Thiền dưới gốc cây bồ-đề. Ánh trăng đêm Rằm không đủ soi sáng bóng râm của cái cây đại thụ, nhưng nhờ sắc áo dà mà hình hài của anh ta lại hết sức nổi bật.
– Mọi người đợi anh nãy giờ đó, Cường.
– Chi, Liên?
– Coi phim. Xuống núi lại đi.
– Trời! – Y-Nhã Cường gãi đầu. – Rồi JB Khải có lên đây không Liên.
– Không thấy.
– Đi đâu nữa vậy anh? – Anh tài-xế xe ôm bất đắc dĩ nhăn nhó hỏi.
– Nhăn thì anh ở lại, tôi kiếm xe khác đi.
– Đau bao tử phải hôn? Anh đi tắm đi, thuốc này phải nửa tiếng mới ngấm lận.
– Được, tôi chờ.
Anh tài-xế mừng rơn mà chắp tay cảm tạ Tăng sĩ nhỏ con.
Thuốc mà Thanh Liên đưa hiệu “Kremil-S”, dạng nước, rất dễ uống, thường thì chỉ cần một nắp là đủ rồi.
Trong lúc đó, người trai lại gốc cây gừa mà nằm nghỉ lưng cho đỡ đau và chờ người khách tắm – gội xong. Gió mát trăng thanh đã đưa người trai cần-lao vào một cơn mộng tuyệt vời.
– Xong rồi.
– Ngồi trên ghế. – Thanh Liên nói với Y-Nhã Cường. Rồi chỉ tay vô băng đá hoa cương dựa bụi bông dành-dành.
Chừng khi chàng Linh mục an tọa đàng hoàng, Thanh Liên mới quỳ một gối xuống và giúp cho người bạn khác Đạo vệ sinh vùng chân bị chém. Mùi chân anh rất hôi và tanh tưởi mủ máu, vậy mà Kỳ Thanh không hề bộc lộ một chút khó chịu hay mắc ói; đôi tay Kỳ Thanh thoăn thoắt lau chùi, tẩy trùng và nẹp lại băng quấn, chẳng mấy chốc mà cái chân của anh đã được ướp thơm trong hương thảo dược Cô Tô.
Vừa bưng cái thau nước dơ, Thanh Liên vừa dặn dò:
– Hạn chế vô nước chứ không phải là kiêng nước hoàn toàn.
Ignacio Cường cười trừ. Và giải thích rằng mình không biết cách làm sạch nên chỉ dám lau nước sơ sịa mà thôi. Thế là Thanh Liên hướng dẫn chàng cách chăm sóc vết thương và những điều cần lưu tâm trong quá trình hồi phục vết thương. Chàng nghe không sót một chữ nào.
– Anh không chịu giữ gìn kỹ sẽ khiến nhiễm trùng huyết nặng hơn. Tới lúc đó… người trần thế không cứu được anh đâu. Và nhớ, đừng uống thuốc thất thường nữa.
– Cảm ơn anh.
Rồi ngập ngừng, chàng Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế hỏi:
– Nếu là nữ, anh có đi tu không?
Và chàng Tỳ-Kheo Nguyên Thủy Phật Pháp đáp rằng:
– Đó là một mệnh đề không xảy ra trong kiếp này nên tôi không biết câu trả lời. Đã xuất gia thì không nên lập ra các tình huống “Nếu… Thì…”
Ước khoảng mười giờ hơn, Y-Nhã Cường mới tới nhà thím Huê. Người tài-xế của anh được Thanh Liên cho mấy chai thuốc nước sản xuất bên Hoa Kỳ và rất nhiều bánh trái mà má Thanh và má con chú Thương đem lên nên mừng lắm; vì tiết kiệm tiền đóng học phí cho con và mấy đứa em mà anh ta thường để bụng đói đến chiều mới ăn nên bao tử đã sớm có dấu hiệu bị loét.
Phòng chiếu phim nằm ở gian nhà bếp. Do bộ ngựa khá nhỏ nên mọi người phải trải thêm chiếu dưới sàn mà ngồi; phái nữ ngồi trên vạt, còn phái nam thì ở dưới đất.
Ignacio Cường hỏi:
– Phim gì vậy?
Khắc Xương trả lời:
– “Bumm Bumm Bole”. Một bộ phim kết hợp giữa Ấn Độ Giáo và Công Giáo.
Coi đâu được một đoạn, Louis Quế cảm thán:
– Đây là lần đầu tiên tôi mới thấy phim Ấn Độ không bị kéo lê tình tiết và tâng bốc nhân vật chính quá đà.
JB Khải hỏi:
– Sao tôi thấy hãng “Adidas” xuất hiện hoài vậy?
Người trả lời vẫn là Khắc Xương:
– Phim này có hãng giày “Adidas” tài trợ mà.
– Hèn chi…
Longiuns Kiến hỏi chàng cư sĩ mập:
– Có phim nào của Ấn Giáo nói về luân hồi không?
Vì Khắc Xương không biết nên bà Ái Liên trả lời thay:
– Có, “Banjaran”. Tôi thích nhứt là ca khúc mà hai diễn viên chính song ca ở phần đầu phim, nhạc phẩm ấy có nội dung như sau: “Đôi mình đã thay đổi mọi thứ ở kiếp này, từ chỗ ở, danh phận, địa vị,… nhưng có một thứ mà dẫu trải qua bao kiếp nhân sinh đi chăng nữa, nó vẫn còn vẹn nguyên, ấy là Tình Yêu mà đôi ta hằng dành cho nhau và chính Tình Yêu đó sẽ dẫn lối cho đôi mình tìm về bên nhau.”
Không muốn Stephen Đoàn coi phim tình cảm nên Ignacio Cường tính nói hết phim này rồi thì đi ngủ. Nhưng Thầy anh đã biểu mình muốn xem phim đó, dẫu sao ông cũng chưa hiểu được sự khác biệt về kiến giải Luân Hồi ở Phật Giáo và Ấn Giáo.
Ngồi nghỉ xả hơi được đâu mười lăm phút, mọi người mới chuyển sang coi phim thứ hai.
Vì không biết tiếng Anh nên Quế Trân quay sang hỏi Khắc Xương. Và chàng cư sĩ Cao Đài trả lời như vầy:
– “When will You come, O Traveller?” – “Chừng nào Anh mới đến vậy, hỡi người lữ khách?”
– Câu người ta ngắn ngủn, ông dịch ra dài thòng.
Kiều Xuân hỏi bà Ái Liên bài hát ấy tên gì:
– Bài hát đó tên là “Teri banjaran rasta dekhe” do Alka Yagnik trình bày. Tạm hiểu là “Một cô gái du mục đang chờ đợi Anh.”
Quế Trân hỏi:
– Còn bài cô nói tên gì?
– “Desh badalte hain” do hợp ca Anuradha Paudwal – Mohd Aziz – Sukhwinder Singh biểu diễn.
Coi đâu được một nửa, bên phái nữ đã khóc hết ráo.
Henrico Thạnh hỏi:
– Nữ diễn viên chánh đẹp vầy không biết có danh hiệu nào bên bển không há cô?
– Là một trong những “Biểu tượng sắc đẹp vượt thời gian” của nền điện ảnh Ấn Độ.
Kiều Xuân cười buồn:
– “Hoa nào không phai và Tình nào không tàn?”
Bà Ái Liên bình phẩm:
– Bà Sridevi được một cái tánh mà tôi rất ưng: Đó là biết lượng sức mình. Tức là sao? Tức là vầy nè: Hồi còn mơn mởn thì đóng vai thiếu nữ hay gái còn son rỗi, chừng đằm tuổi một chút thì lãnh vai gái đã có chồng hoặc vai chị – vai dì, sau này ngoài tứ tuần rồi thì nhận luôn vai phụ nữ cao tuổi và già dặn…
Quế Trân góp lời:
– Ai đời như nhiều bà diễn viên xứ Tàu, cái mặt già chát mà toàn nhận vai “Thiếu nữ Thiên Trúc”, đóng cặp với nam chánh mà tưởng dì ghẻ – con chồng.
Khắc Xương bật cười khúc khích:
– Cô làm tôi nhớ tới cô Hồng Đào, trong cái tuồng “Nữ hoàng Chuối Chiên”, cổ đóng vai một bà nhà giàu đã già mà còn ngựa, tự bỏ tiền làm phim để mình được đóng vai chánh, chừng nam chánh bước ra gặp bả, nam chánh đã quỳ xuống nói, “Cô Tấm, con là Hoàng tử, con xin chào cô Tấm.”
Longiuns Kiến biểu:
– Lát bật cái tuồng đó coi cho vui.
– Có phải vì Tình Yêu mà con người đã phản bội Thiên Chúa không?
Stephen Đoàn đáp:
– Phải.
Kiều Xuân than mệt nên xin phép lên lầu nằm ngủ một chút, chừng nào về núi thì làm ơn gọi nàng dậy một tiếng. Đã thân con gái khổ trăm bề, lại gặp thêm chứng lụy tình nên đọa đày khôn xiết, không hiểu sao nhiều người muốn làm nữ, trong khi mình lại muốn được làm một đấng mày râu…
Thím Huê sáng mai phải bán hàng nên giờ này phải ngồi nhào bột, ram thịt – bì, rửa và sơ chế các nguyên liệu khác. Tuổi tác đã cao lại không có người thân đỡ đần, nên những năm gần đây thím đã bớt nấu vài món cho khỏe người. Sau này thím có ra đi cũng chẳng có ai nối nghiệp của thím; bao nhiêu công thức, bấy nhiêu bí quyết mà thím hằng giấu giếm để kiếm miếng cơm manh áo cho mình cứ thế trôi tuột vào lãng quên.
Quế Trân nhận phần rửa lòng heo và lấy lòng đỏ hột vịt muốn, còn Khắc Xương xung phong xắt hành tây, hành tím và boa-rô với bằm tỏi, phi hành chấy và đâm đậu phộng rang.
Vừa quậy bột để làm món bánh hẹ giùm thím Huê, bà Ái Liên vừa trầm giọng hỏi:
– Chừng nào a-muối mới nghỉ bán?
Thím Huê lắc đầu:
– Còn sống là còn bán. Nghỉ lấy giống gì mà bỏ vô miệng và lo cho mình hả a chế?
– Phải chi a-muối chịu bán chung…
– Thôi, dẹp, hồi đầu thì tình nghĩa lắm, tới chừng có ăn là tranh giành thương hiệu liền.
Quế Trân chợt than mình không biết cách nào để học tiếng Anh mau vô đầu.
Bà Ái Liên khuyên:
– Muốn giỏi tiếng Anh, chịu khó nghe vở ” The Man without a Country” của tác giả Edward Everett Hale do Bing Crosby thủ vai chính riết là lên tay hà.
Nghe đâu được một đoạn, Sáu Quới ôm mặt la trời:
– Hổng có nghe ra được chữ nào hết á. Trời ơi, lùng bùng hết hai lỗ tai, mặt ngu ra luôn, mà không hiểu được một tiếng nào hết.
– Ai cần thi quốc tịch Mỹ nghe cái này cũng hữu ích lắm. Con tôi nhờ nghe cái này mà thi đậu đó.
Út Thương cũng đã từng đọc qua cuốn sách này nên góp đôi lời:
– Nội dung trong tác phẩm này có đề cập tới người da đỏ, đại ý nói rằng tưởng niệm những chiến binh da đỏ đã ngã xuống trên mảnh đất này và chúng ta, tức dân Mỹ, phải giữ lấy lời hứa mà chúng ta đã từng tuyên bố với sắc dân da đỏ…
Út Thanh tiếp:
– Hầu như bài hát “World Cup” nào do nhà sản xuất âm nhạc Hoa Kỳ phát hành đều chọn người da đỏ làm biểu tượng của nước Mỹ.
Louis Quế cười hỏi:
– Sao cậu Thanh nói chuyện ít xen Anh ngữ vô quá vậy chị?
– Tánh nó vậy đó cậu. Lúc nào cũng hạn chế nói xen xọt hai ngôn ngữ.
Dù thím Huê không nói ra nhưng bà Ái Liên biết cái mùi của ngôi nhà này đã trở nên hỗn tạp kinh khủng đâm ra bà bạn đồng hương hết sức bực mình. Vậy là bà liền đưa chai “Febreze Air – White Jasmine” cho bà bạn xịt khắp nhà, chỉ có mùi dầu thơm nồng nặc này mới át nổi bầu không khí hôi tanh kia.
– Mùi bông lài? – Thím Huê ngạc nhiên hỏi. – Thơm quá đi mất!
– Ở chỗ tôi còn nhiều chai thơm lắm đó a-muối.
– Vậy cho a-muối xin vài chai nghen?
– Rất sẵn lòng.
Mợ Hai bấy giờ mới lên tiếng:
– Chị cũng xài chung hiệu với tôi hả?
Bà Ái Liên gật đầu với nụ cười mỉm trên môi.
– Lát nữa cho mấy đứa này một chai xịt phòng nhe?
– Được chớ.
Út Thương mừng rơn. Số là cái phòng mà cậu và Út Thanh đang ở hôi mùi sơn mới quá, bây giờ chỉ có nước xịt mùi này mới thoát được thôi. Cậu sẽ để người bạn lớn tuổi chọn mùi hương, dẫu sao cậu cũng không rành ba cái vụ này cho lắm. Rồi sau một đỗi lựa chọn, Út Thanh chọn chai “Febreze Air – Lilac” và “Febreze Unstopales Air – Breeze”; lỡ chai này không ưng thì có chai khác sơ-cua. Út Thương cũng chọn cho mình một chai cho vui, cậu chọn chai “Febreze Air Downy – April Fresh”, mùi này là mùi nước xả vải Downy nên chắc sẽ không gắt lắm.
– Ngày mai thím Huê nghỉ bán mà ngủ cho khỏe đi… – Út Thương ngỏ ý khuyên sau khi thấy thím Huê uống cử thuốc trị cảm.
Thím Huê lắc đầu cự nự:
– Hổng bán tiền đâu…
Út Thương đưa một cọc tiền toàn tờ một trăm đồng dày cộm mà biểu:
– Nghỉ đi thím.
– Được, có tiền là thím nghỉ liền. – Thím Huê đưa tay lấy liền. – Đừng có trác thím bằng tiền giả nghen con?
Sáu Quới tặc lưỡi:
– Trời đất ơi, người ở đâu mà xỉa tiền như xỉa răng vậy?
…
Chân Tâm cau mày ngẫm nghĩ, rồi lắc đầu mà nói lời từ chối thẳng thừng.
– Chừng nào họ rũ được cái lốt Quỷ Dạ-Xoa đi rồi hẵng lên đây xuất gia. Cái đầu vẫn còn rình rập hại người, Quy Y chỉ tổ khiến họ bị Nghiệp nặng thêm thôi.
Quỷ Cao hỏi:
– Nhưng anh nói anh là người tu hành mà thấy chết không cứu sao?
– Ai nói tôi không cho mấy người lên đây ở?
Rồi chàng Tăng sĩ đeo mắt kiếng lắc đầu cười khổ:
– Quỷ phá nhà chay nhiều lắm rồi.
Hai đồng nghiệp của Hỷ Tín ra ở trong căn nhà sàn mà bà con của ông Sáu Diên xây cất, nằm gần rừng cây thốt-nốt vô chủ, diện tích ước khoảng ba mươi mấy mét vuông, có một trệt và một gác lửng, ở hai người thì vừa lắm.
– Thiện Sanh. – Chân Tâm kêu mà không nhìn tới mặt A Luật.
– Dạ?
– Xuống núi mua cho hai người này hộp cơm.
A-Luật vùng vằng:
– Không muốn đi.
– Đi liền cho tôi!
Duy Hảo lại gần mà bạch:
– Thưa Thầy, để tôi đi giùm cho.
– Không buông xuống được thì sao mà tu?
Thiện Sanh xiết tay thành nắm đấm. Rồi gục đầu nhận lịnh. Thái độ bất tuân của người Sa-di tứ tuần đã khiến Đại Trưởng lão đồng tuổi nở nụ cười buồn tênh.
– Nè, nói nghe nè… – Thanh Liên ngoắc hai tên Dạ-Xoa lại gần.
Quỷ cao ngó quỷ thấp, rồi cả hai đồng loạt nhìn nhau mà nhún vai một cái, ra vẻ để coi cha nội này muốn làm gì.
– Ai muốn đi tu thực lòng?
Quỷ thấp rụt rè:
– Chỉ muốn mượn áo nhà tu để trốn chứ hổng có muốn xuất gia thiệt.
– Đúng, đúng, đi tu giống mấy cha thầy chùa lửa kia thì được, chứ giống mấy người sống sao nổi?
Thanh Liên nhếch miệng cười:
– Vậy thì khỏi tu. Khỏi bàn cãi nữa.
Sau buổi trò chuyện, hai tên Dạ-Xoa chạy xe về ngôi nhà sàn. Đây sẽ là chốn trú thân cho họ trong miên trường sắp tới.
– Mày ở đâu? Tao xí căn gác rồi đấy. – Quỷ cao nói với Quỷ thấp.
– Đ* má, ở dưới này có chỗ nào để ngủ đâu thằng chí? Hai đứa chia nhau gác lửng mà ngủ.
Hai bên cự cãi một hồi mới chịu im miệng mà lên gác sắp xếp chỗ ngủ. “Đứa ở đầu sông, đứa ở cuối sông…” thế là xong.
– A Luật. Đừng có chửi thề. Tôi biết chú đang nóng máu dữ lắm.
– Biết vậy thì vô đưa cơm giùm tôi đi. Tôi vô rừng ngồi tọa Thiền hạ hỏa chút.
Duy Hảo chắp tay chào tạm biệt Thiện Sanh. Nhưng sau một hồi dụ dự, chàng Triều Châu không ̣đi mà đứng nán lại nghe lỏm coi ba người đó nói cái gì và phản ứng của hai thằng “Báo Cáo viên” ra sao.
– Rảnh tay chưa? Xuống lấy cơm nè, hai vị.
Quỷ cao ba chân bốn cẳng bang xuống trước. Ngoài đồ ăn – thức uống ra, Sa-di Duy Hảo còn mua cho họ những nhu yếu phẩm cần thiết; toàn bộ số tiền này đều của Đại Trưởng lão Thanh Liên.
– Lát nữa các Thầy thuyết Pháp, hai vị có muốn lại nghe không?
Quỷ thấp đồng ý cái rụp. Còn Quỷ cao nhíu mày do dự, một lúc sau mới miễn cưỡng đồng ý.
Rời khỏi ngôi nhà sàn ấy được mấy trăm mét, Thiện Sanh quay qua chất vấn Duy Hảo:
– Tụi nó mà nghe cái giống gì?
Duy Hảo bật cười:
– Vậy là chú chưa nghe tích truyện “Dạ-Xoa hộ Pháp” rồi.
– Tích truyện đó sao?
– Vào thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, Trưởng lão Cấp-Cô-Độc nghe mọi người kháo nhau rằng Sa-môn Cồ-Đàm là một vị Phật sống nên đã bỏ công tới tìm hiểu thực – hư. Vì quá nóng lòng được diện kiến người Sa-môn nổi tiếng nên dù chỉ mới canh ba gà gáy mà ông đã khởi hành. Nhưng, cảnh đêm tịch mịch đã khiến Tâm Ma của ông trỗi dậy; nó khơi gợi cho ông những ý nghĩ không hay về Ngài, tỷ-như Ngài là phường hữu danh vô thực hoặc cũng giống như những hạng thầy tu ba xạo mà ông đã từng gặp thì sao, rồi rủi đi sớm quá như vầy trộm cướp sát hại thì tài sản và gia đình ai lo… Trong lúc ông đang thoái chí, một con Quỷ Dạ-Xoa tên là Sìvaka đã lại gần ông mà khẳng định rằng Ngài đúng là Phật sống và anh ta sẽ bảo vệ cho ông trong suốt hành trình này. Vẻ ngoài xấu xí và hung tợn của Sìvaka đã khiến cho ông xém đau tim chết, nhưng nghe anh ta nói như vậy xong thì tự nhiên ông lại cảm thấy mủi lòng mà quyết định làm theo lời của anh ta thử một phen.
Không nhờ con Quỷ Dạ-Xoa ấy, sẽ không có Kỳ-Đà viên đâu.
– Trưởng lão gần cùng tên với Ngài, nhưng Ngài là Siddhattha – Tất Đạt Đa, còn ông là Sudattà – Tu Đạt Đa.
– Vậy rồi con quỷ đó sao?
– Theo một dị bản thì anh ta được chuyển sanh thành một vị Chư Thiên.
Thiện Sanh đã hiểu ý của Duy Hảo. Chú cúi mặt ngượng ngùng, những đầu ngón chân cứ thế di di trên mặt đất mọc đầy cỏ dại.
oOo
Chàng Cha Phó xấu trai đang đứng ở sau hè nhà người dưng mà nghe bài “Nửa đêm quê Ngoại” của đôi nhạc sĩ Tấn An – Hoài Linh qua phần trình bày của Hoàng Oanh. Quê ngoại trước mắt mà sao Stephen Đoàn cảm thấy xa xôi diệu với quá!
Bữa cơm cuối cùng ấy đích thân Kiều Xuân đứng ra nấu chánh. Nàng nấu món huyết chưng, canh rau dền và tập tàng nấu với tôm khô, sườn xào chua cay, gỏi tam sắc (bông bí, điên điển và so đũa) tôm – mực, bầu hấp, rau lang luộc chấm chao môn và cá trê chiên xù.
Trong lúc đợi mâm cơm thành khoảnh, Sáu Quới ra hàng ba mà ngồi nghe nhạc và thiết kê bảng hiệu cho khách. Bài hát mà chú đương nghe là bản “Tương tư trong mưa gió” do song ca Trương Học Hữu – Thang Bảo Như trình bày; Từ Nhật Cần và Kiến Ninh là đồng tác giả tình khúc này. Bản Việt tên là “Tương tư trong mưa” của Minh Thuận, do chính anh song ca với La Sương Sương và Tú Linh; và một bản khác nữa cùng tên do nữ nhạc sĩ Khúc Lan đặt lời. Năm xưa, chú thương người ta nên đã dụ dự suốt mà không chịu học lên cao hơn để được thụ phong Linh mục, giờ nghĩ lại nhờ vậy mà chú không lỗi Đạo và lỗi luôn với trái tim mình – và nhứt là lỗi với Thiên Chúa. Nếu lần này nó mà còn vì con nhỏ này mà ra đi nữa, chú sẽ khuyên nó tu xuất luôn.
Lát nữa Longiuns Kiến sẽ cùng hai thằng con chạy về trển bằng xe riêng. Mấy bữa rày chôn chân trong xe bốn bánh chán rồi nên ông muốn hít thở khí trời và bụi đường; nghe vậy, JB Khải và Henrico Thạnh đòi hộ tống ông cho an toàn.
Bữa cơm ngon miệng mà khó nuốt vô cùng. Ai nấy đều ráng lùa thức ăn xuống bao tử cho xong phần mình, rồi lặng lẽ thu xếp hành trang mà “Chuyển bến”. Rồi không đợi bên nhóm Linh mục kip phản ứng, Khắc Xương đã giục Quế Trân và Kiều Xuân mau lên xe để mình đưa về Cô Tô. Sau một lúc hoàn hồn, Ignacio Cường hối Stephen Đoàn mau chuẩn bị hành lý để về trễ sớm và đỡ bị kẹt xe.
Chiếc xe Chevrolet của Sáu Quới đưa họ về lại thành đô đất chật người đông và nhọc nhằn mưu sinh cũng lắm. Do chạy ban đêm nên chưa tới ba giờ sáng là nguyên nhóm đã về lại chốn cũ.
Stephen Đoàn không trở về Giáo xứ liền mà lại xách xe qua Quận Thủ Thiêm kiếm chỗ tĩnh tâm.
Quán cà-phê mà chàng Linh mục xấu trai hay uống không mở cửa sớm, vậy là chàng bèn lại một quán khác trong vùng mà kêu một ly cà-phê không đường nhiều đá để đầu óc bớt cơn mông muội.
– Bỏ xíu đường nhen cưng? Đắng vậy ai uống cho nổi.
– Dạ thôi. Bữa nay con không thích uống đường, muốn uống đắng thiệt đắng hà.
– Ờ, vậy thôi, để thím làm theo ý cưng. Nhiều khi trái gió trở trời thím cũng tự nhiên đổi khẩu vị lắm.
Giáo dân đã tề tựu ở cổng chánh của Giáo xứ. Ai nấy đều nóng lòng chờ đợi câu trả lời của Cha Phó – Stephen Đoàn Ngọc Mỹ.
– Cha Mỹ đâu rồi Cha Cường?
– Ảnh kiếm chỗ tĩnh tâm rồi.
– Vậy rốt cuộc nó có về đây không?
– Về thì con mới về. Chứ ảnh mà hồi tục, con về đây chi nữa?
Louis Quế chạy vội về nhà mà trong lòng nôn nao khôn tả. Không biết bậu tính xử qua sao ha?
Maria Bích ngồi đợi ở ngoài cổng nhà, cô để cho bài ca cổ “Nuôi chồng” do tài nữ Út Bạch Lan trình bày để nói thay nỗi lòng mình.
– Trời ơi, tôi chưa chết mà ẻm phát điếu văn rồi!
Henrico Thạnh nhếch miệng cười:
– Ai biểu ông đi huốt luôn nửa tháng?
Louis Quế cự lại:
– Vậy đứa nào cù rủ tao?
Chị Sáu nguýt ông chồng già một cái muốn rớt con mắt rồi đi vô nhà một hơi với cái ghế mủ cầm trên tay.
Trước lúc vô nhà dỗ dành vợ, Louis Quế vỗ vai Henrico Thạnh mà nhắn nhủ rằng:
– Tưởng đâu Giáo dân hợp ca bài “Cha ra đi, nơi này vẫn thế” của ông TCS là xong rồi.
Andrew Hồ khứng cho “Hai trái tim vàng” một khoản tiền khá lớn để mua đất cất nhà. Nể tình anh em đồng Đạo, một người Giáo dân trong xóm nhượng lại một cuộc đất nho nhỏ với giá rẻ hơn giá trị thực tại của nó rất nhiều.
– Ê, ông già, đừng giận tôi tự ý nhe?
Sáu Quới quàng vai Sáu Bích mà cười tươi khen:
– Giận gì? Bậu giỏi vậy qua thương còn không hết nữa là…
– Ban đầu tính xây nhà cấp Bốn thôi. Nhưng nhà mình đông con quá nên phải cơi thêm căn gác và sân thượng.
Chưa gì mà thằng Hai và thằng Ba đã giành nhau một phòng trên sân thượng. Học theo cách xây cất của người Nhựt, chú sẽ nhờ thợ ráp-phòng từ những miếng ván giả gỗ thật nhẹ và khó bắt lửa, như vậy vừa tiết kiệm được tiền mà còn đỡ tốn thời gian nữa.
oOo
Chỉ còn một tuần nữa là vô Mùa Chay. Thánh đường của Giáo xứ đã được trang hoàng lộng lẫy và tráng lệ, ngay cả nhà tạm và hội trường cũng được bày trí rực rỡ. Những ông Thầy Dòng thấy lửa đã nguôi nên không còn về giúp xứ nữa, lâu lâu gọi điện qua nhắc chừng hai thằng con mà thôi. Về phần bà con xóm Đạo, quá nửa tha thứ cho Stephen Đoàn, phần rất đông khác vẫn thương chàng ta như ngày nào, còn nhóm thiểu số thì chưa nguôi ngoai được – thậm chí họ còn muốn nhập xứ khác luôn để khỏi phải thấy kẻ phạm tội như anh.
Stephen Đoàn đang hướng dẫn ca đoàn tập bài Thánh để mừng Lễ Phục Sinh. Thần sắc anh đã tươi tỉnh hơn hôm qua, nhưng ánh mắt vẫn u buồn mang mang khắc khoải.
Một cô trong ca đoàn mở lời:
– Bữa đó Cha hát chính nghen Cha?
– Dạ.
Tiếng hát của chàng Linh mục có vẻ mặt vừa xấu vừa hiểm bữa nay nghe sao thảm sầu khôn cùng, tưởng như trong giọng ca ấy đang vang lên âm hưởng thống hối đầy thê lương và lời van vỉ cầu nài Thiên Chúa hãy tha thứ cho mình.
– Ổng ca mà tao muốn bỏ ăn cơm luôn. Nghe còn rầu hơn “Sầu nữ – Út Bạch Lan” nữa.
oOo
Qua Lễ xong xuôi, Ignacio Cường gọi điện thoại hỏi thăm Tăng đoàn. Anh vẫn còn giữ chay tới cuối tháng sau, cốt là để đền chuộc những ngày tháng anh và Ngọc Mỹ bỏ bê Giáo xứ.
Ngồi đợi hơn nửa tiếng mới có người bắt máy, đôi lúc Y-Nhã Cường cũng bực cái tánh giữ giới quá đáng của nhóm Tăng sĩ, vì nếu có chuyện cần kíp thì liên lạc khẩn cấp bằng cách nào đây?
– Tôi, Trì Thương. Thanh Liên đang ở Vườn Lan rồi. Nếu muốn, tôi sẽ đi gọi Thầy ấy về liền.
– “Liền” là bao lâu?
– Hơn nửa tiếng.
– Cảm phiền gọi lại giùm tôi. Tôi không đủ kiên nhẫn để ngồi chờ nữa đâu.
– Sadhu.
Trong lúc “Chờ người”, Ignacio Cường bắc nước luộc rau lang và hấp bầu để lát nữa ăn với cơm và chao môn. Riêng Ngọc Mỹ sẽ chấm nước-tương ớt; chàng Cha Phó đang phơi mền sau hè, một cái của ảnh và một cái của anh, đứng ở trong bếp mà ngửi rõ mùi nước xả-vải “Downy – Perfume: Elegant”.
– Tối nay mình ăn cá diêu-hồng kho cà hả Mỹ?
– Tùy anh thôi.
Ignacio Cường cau mày hỏi tiếp:
– Vậy mình nấu canh gì? Nói thêm một câu “Tùy anh thôi” nữa là tối nay mình không ăn cơm chung đâu.
Stephen Đoàn gãi đầu cười trừ. Anh không thèm ăn món gì hết, miệng lại lạch nhách nữa, nên không nghĩ ra được món canh nào. Nhưng cũng không muốn lỗ tai bị lùng bùng nên anh chọn đại:
– Vậy canh rau dền nấu mướp đi. Sẵn có mớ tôm khô mà Khắc Xương cho đó.
Ignacio Cường gật đầu.
Vừa hay điện thoại di động của chàng Cha Sở đổ chuông nên Stephen Đoàn thoát được buổi trò chuyện miễn cưỡng này. Chẳng là hôm trước tắm đêm nên bây giờ anh bị viêm họng, thành thử mở miệng nói rất khó chịu.
Thanh Liên vẫn như ngày nào. Anh ngồi trong thơ phòng, lưng dựa vô cửa sổ, từ phía của người bạn khác Đạo có thể trông rõ cảnh trí thiên nhiên sau tấm kiếng mỏng – thậm chí là nghe thấy luôn tiếng chim rừng núi hót véo von ngoài kia.
– Có chỗ nào ẩn tu mà giông giống mấy anh nữa không, Liên?
– “Hillside Hermitage”, đó là nơi mà các thầy tu ấy ở; không biết sau này thế nào nhưng trước mắt tôi thấy họ đúng là những bậc chân tu.
– Anh có muốn qua thăm họ không?
– Sẽ. Tùy Duyên. Không vội.
– Tại sao anh nói mà không bao giờ lồng ghép tư tưởng của một nhà triết gia nào; kể cả Thầy của anh, anh cũng chỉ nương theo vài ý mà không ôm chặt cứng?
– Anh có từng đọc cuốn “Martin Heidegger vả Tư tưởng Hiện đại” của “Người không sống không chết” Bùi Giáng không?
Ignacio Cường lắc đầu.
– Hãy đọc đi rồi anh sẽ lấy được câu trả lời.
– Có thể trả lời trước không?
– Tôi có quen một số người, đã tốt nghiệp hẳn hoi Đại học ở Anh, Úc, Mỹ, Pháp, Gia-Nã-Đại,… nhưng họ không thoát được cái bóng của sách vở, tức là đụng đâu cũng dựa theo triết luận của tác giả mà diễn giải chuyện của mình. Đối với tôi, họ rất giỏi, nhưng mà giỏi học vẹt. Họ không có lấy một Bản Ngã của riêng mình để định hình hệ tư tưởng trong khối óc họ, thành thử họ vẫn loay hoay trên bàn phím mà sống đời triết luận của những người đã chết.
Ignacio Cường mời Thanh Liên nói tiếp.
– Anh muốn nghe tôi nói hay muốn nghe Platon nói?
Y-Nhã Cường bật cười:
– Tôi hiểu ý anh rồi.
– Dựa dẫm quá mức vào sách vở hay người tri thức có tăm tiếng cũng là một cách lấy đá ghè chân mình, và tự triệt tiêu óc suy luận và diễn giải của mình.
– Nhưng anh vẫn lấy “Kinh Kalama” làm kim chỉ Nam mà sống?
– Không phải lấy “Kinh Kalama” làm kim chỉ Nam, mà lấy nó làm lời nhắc nhở để mình không phiến diện và mù quáng mà thôi.
– Chân Tâm là “gọng kìm” của anh phải không?
– Ai cũng có thể là “gọng kìm” của tôi hết. Tôi hoan nghinh mọi biện luận và câu hỏi, càng dồn tôi vào “chỗ chết” chừng nào – tôi càng hoan hỷ chừng đó.
Bỗng bóng dáng một người con gái mặc áo lam đi lướt qua bên ngoài cửa sổ. Trên tay nàng cầm một bình giống bình nước Cam Lồ mà Y-Nhã Cường thường thấy trong những bức tranh vẽ Bồ-Tát Quán-Thế-Âm.
– Ai vậy Liên?
– Kiều Xuân.
Đôi mắt Y-Nhã Cường bừng mở:
– Cô Xuân đã Quy Y Tam Bảo rồi hả?
– Phải. Bây giờ cổ là một Cận-Sự Nữ có Pháp Hiệu là Bạch Mai. Cái am của cổ nằm trong tịnh thất của tụi tôi luôn.
– À, ra là cái phòng bữa hổm.
– Ừm.
Stephen Đoàn thấy trời sắp chuyển mưa nên hấp tấp kéo sào đồ vô, tình cờ nghe được một cuộc trò chuyện trên, anh không còn thấy dông tố đang đổ xô bên ngoài nữa mà lại thấy chúng đang ngự trong tâm khảm mình.
– Anh có biết tại sao phái nữ lại không thể thành Phật được không?
Ignacio Cường lắc đầu.
– Vì họ nặng tình, họ nặng tình với tất cả mọi thứ trên cõi đời này, không như phái nam – nói bỏ là bỏ cái một. Và một khi họ vô tình, không có điều ác nào mà họ không dám làm để giành cho bằng được cái thứ họ muốn.
Cho nên mới có chuyện một người mẹ vì con mà có thể chịu mổ bụng sống để cứu nó, nhưng cũng có thể máu lạnh đến độ dứt tình mà phá thai cái một hay giết nó để vu oan giá họa cho kẻ thù.
– Rồi cổ ăn cái gì sống?
– Cổ ăn chung với tụi tôi luôn.
Stephen Đoàn nghe nàng đã Quy Y, tự nhiên “Thấy sao đời mình tự do quá”. “Nếu anh không dám chiến đấu vì thứ anh muốn, thì cũng đừng có khóc khi đánh mất nó”, lời ấy là dành cho chàng. Chàng không dám ở lại bên cạnh Xuân thì cũng đừng hối tiếc hay cứ lưỡng lự hoài.
Kiều Xuân đã thấp thoáng thấy bóng dáng sầu cô quạnh của người thương, trái tim của nàng hẫng đi một nhịp, khẽ thôi, nhưng cũng đủ để nàng nhói đau. Và người thương của nàng cũng đã nhìn ra nàng, Stephen Đoàn không trông được đôi mắt buồn muôn thuở ấy, song chàng vẫn cảm nhận được một nỗi buồn dệt từ miên trường suối lệ.
Từ nhà trên vọng xuống tiếng thưa Cha của một đứa nhỏ chừng tám – chín tuổi, âm thanh trong trẻo của con Chiên nhỏ đã làm Stephen Đoàn tỉnh hồn. Anh hớt hải chạy lên nhà trên rước nó; và nàng, nàng cũng sực thoát cơn mê mà vội vàng rời khỏi đó để đi giao thuốc cho bà con cần dùng.
– Có việc gì hả con? – Y-Nhã Cường vừa hỏi vừa đưa cho thằng bé hũ kẹo “Chupa-Chups”.
Nó cười toe mà lấy hai cây: Một vị trái vải và một vị trái nho. Đoạn cười tươi, bạch:
– Má con sanh em bé rồi hai Cha. Ba con biểu con qua đây kêu Cha nào cũng được để lát làm Lễ cho nhỏ em con.
Hai ông Cha bật cười khúc khích. Kêu Cha mà tưởng kêu tài-xế, thằng nào chở đi cũng được!
Y-Nhã Cường xoa đầu thằng nhỏ mà hỏi:
– Vậy con ưng ai?
– Con đâu có ưng ai đâu mà biết đường chọn.
Y-Nhã Cường nhếch miệng cười:
– Vậy sao con không hỏi ba con?
Thằng nhỏ cúi mặt mân mê hai cây kẹo:
– Ba con quýnh quá nên cũng hổng biết chọn ai.
Y-Nhã Cường bèn cậy Stephen Đoàn. Muốn cho anh ta không bị chộn rộn thì nên kiếm việc cho anh ta làm.
Đợi cho cha – con đi rồi, Y-Nhã Cường mới hỏi Thanh Liên:
– Anh nghĩ sao về những người cố gắng chứng minh Thiên Chúa không có thật?
– Đó là một đề tài hay với họ, và là một đề tài không cần thiết đối với tôi.
– Nói rõ hơn đi.
– Những câu hỏi dạng này đã được Đấng Thế Tôn nói rõ trong “Kinh Phạm Võng” rồi. Tại sao tôi phải bỏ công tìm hiểu và chứng thực những chủ đề không can hệ tới con đường tu hành của mình?
– Tôi đang nói mấy người bài xích Chúa, ông nội.
– Tôi chưa nói xong…
– Hèn chi anh bị Chân Tâm la là phải.
– Phải, tôi dài dòng, tôi biết tật của tôi mà…
Ignacio Cường cười khổ.
– Những người bài xích Chúa thường lấy những vấn nạn bên anh ra để công kích Đạo anh, và họ luôn cố tình lờ đi những thành tựu mà tín hữu Kitô đóng góp cho thế giới hay những chương trình nhân đạo mà bên anh đã làm được. Cá biệt, hồi đó tôi có quen với một người bạn học chung Đại Học, anh này luôn khách quan trong rất nhiều chủ đề, nhưng hễ có tin nào gây bất lợi cho Đạo anh là thể hiện tinh thần chủ quan ngay tức khắc, tức là cho rằng tin đó là đúng và ai phản biện thì đều là con Chiên mông muội; anh này dần dà mắc bịnh vĩ cuồng, tự cho cách nhìn nhận của mình về Đạo anh là sáng suốt hơn người trong Đạo, trong khi anh này còn không biết Chánh Thống Giáo, Anh Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Do Thái Giáo,… có điểm chung là gì và sự sai khác giữa các đức tin này ra sao…
– Vậy chắc khứa này có lắm người hùa theo?
– Phải.
– Rồi còn nghĩ gì nữa không?
– Hết rồi.
– Gì? Có nhiêu đó thôi hả?
– Tại sao tôi phải để tâm tới những người bài xích tôn giáo?
– Vậy anh nghĩ sao về những người đem kinh điển bên Đạo anh ra làm trò đùa?
– Mấy cái vụ như “Quả táo nhãn lồng”, “Luật hoa quả”, “A-di-đà-lạt”,… á hả?
Ignacio Cường vẫn bật cười thành tiếng dù đã ráng hết sức dằn xuống.
– Thì kệ họ. Nghiệp là do họ định, không can hệ gì tới tôi hết.
– Tôi nghĩ nếu ai mà sửa kinh điển bên Đạo tôi để làm trò cười chắc…
– “Hỏa thiêu Hồng Liên tự”?
– Dám chừng có Thánh chiến luôn ấy chứ.
Rồi chàng Cha Sở hỏi câu khác:
– Nam – Nữ tu chung được hả anh?
Thanh Liên lắc đầu:
– Theravada thì không được, nhưng Mật Tông lại cho phép điều đó. Thành ra, nhiều Tăng sĩ bên Nguyên Thủy đã lên tiếng phản đối Mật Tông – Kim Cang Thừa về vấn đề này.
– Mà sao anh để cổ ở đây?
– Tôi là bác sĩ Tâm Thần. Cổ có chuyện gì, tôi cứu được liền. Chừng nào cổ khỏe, tôi tiễn cổ đi liền.
– À, dẫu sao anh cũng biết thuốc nào mà kê đơn.
Thanh Liên không muốn nói rõ việc kê đơn thuốc và chữa trị cho người khác cũng là một tà mạng mà Tăng – Ni phải tránh, nhưng giờ thà anh bị phạm giới còn hơn là để mặc cho cư sĩ Bạch Mai “chết chìm”.
Sau một đỗi lặng thinh, Thanh Liên lại tiếp:
– Có một người đăng hình một ông Giám Mục khiêu vũ với một cô thiếu nữ ăn bận theo kiểu phù thủy…
– Rồi sao?
– Anh biết tấm hình này là ở đâu ra không?
Y-Nhã Cường lắc đầu mà sắc mặt phừng phừng lửa giận.
– Ở trong lễ hội hóa trang. Ông Giám Mục đó là ông nội, còn cô phù thủy kia là cháu nội, hai ông – cháu đang khiêu vũ theo một giai điệu truyền thống của dân tộc họ.
Ông Cha Cọp thở phào nhẹ nhõm.
– Đôi lúc, một số bức hình chụp Tăng – Ni phá giới là trích ra từ phim ảnh, chủ yếu là phim hành động – hài.
Đức Cường gật đầu:
– Vậy ra người kia cố tình bôi nhọ Đạo tôi?
– Phải. Người này thù Đạo anh tới mức độ mà tôi không tài nào hiểu nổi. Phải cất công đọc Kinh Thánh rồi chụp hình lại những câu mà người đó cho là có vấn đề, cũng như cố gắng tìm bằng chứng để chứng tỏ hình tượng Thiên Chúa là không tốt đẹp.
– Xong chưa?
Người vừa lên tiếng là JB Khải. Anh xuống nhà sau với hai cái giỏ đệm đầy vun nguyên liệu tươi rói, lát nữa thằng Thạnh bạn anh sẽ làm cơm để chiều nay hai người đi phát cơm cho người cần ở một xóm lao động bên Quận Tân Bình. Anh và nó mỗi người một ngả, do không hạp tánh để “Đi trọn đường trần”.
– Thạnh đâu rồi?
– Qua nhà dì Chín mần vườn rồi. Bỏ tủ lạnh hết đi. Lát ổng tự xử.
Dù thằng Cường nói vậy, nhưng JB Khải vẫn không chịu ngồi yên mà ra sàn nước sơ chế thịt – cá và lặt rau. Ba cái đồ này không làm sạch mà bỏ vô tủ lạnh liền, vi-khuẩn chết.
– Nấu cơm chưa Cường?
– Rồi.
Trong lúc đợi người bạn đồng Đạo nói chuyện xong, Thanh Liên mở Tạng Luật ra ôn lại những điểm mà mình còn thắc mắc và chưa thấu rõ.
– Anh không ăn gì nữa mà không cảm thấy đói sao?
– Bị teo bao tử rồi.
Ngoài cửa có tiếng huýt sáo váng trời, hai chàng Linh mục vừa nghe đã biết thằng Thạnh về tới. Nó đi đến đâu, mùi nhãn bay theo tới đó. Chẳng mấy chốc mà tầng trệt khu lưu xá đã thơm lựng hương nhãn da bò.
– Dì Chín cho một giỏ nhãn luôn. Nhãn ngọt dữ lắm.
Y-Nhã Cường chỉ vô bàn bếp:
– Phần của anh kìa. Tôi rửa ráy xong hết rồi.
Henrico Thạnh nói xẵng:
– Mới dìa mà giao việc cho con làm rồi cha? Sợ con ở không hả?
– Ờ.
– Để đi tắm cái. Đầu thì dơ, mình thì hôi, nấu ra ngộ độc chết.
Ngó qua nồi rau trên bếp, chàng Linh mục Kiến Hòa la lên:
– Rồi đứa nào luộc rau mà bấy nhầy còn hơn “Chuyện tình La Lan” vậy?
– Đứa này được hôn? – Y-Nhã Cường trỏ vào mặt mình.
– Dạ được. Tưởng nấu cám cho heo ăn không hà.
JB Khải giờ mới thấu suốt một “chân lý”: Chỉ có Thạnh mới trị được Cường mà thôi.
– Đem bỏ sọt rác đi ông nội. Lát con luộc dĩa khác cho mà ăn.
Ignacio Cường day lại thì không thấy Thanh Liên đâu nữa. Chỉ thấy một dòng tin nhắn ghi vỏn vẹn hai chữ, “Hết giờ”. Anh phì cười mà click chuột vào phím “Tắt” rồi thoát ứng dụng trước khi gập máy.
Sau một hồi tính toán, Henrico Thạnh quyết định sẽ làm món gà rô-ti với nước cốt dừa, cải chua, cải ngồng luộc và phá-lấu rim nước dừa xiêm.
– Trời ơi, thành Ông Hai Đạo Dừa rồi! – JB Khải càm ràm.
– Sẵn có nguyên xe dừa nên chế biến thôi. Hổng lẽ bắt người ta ăn chay chung với mình.
– Nói một đằng, trả lời một nẻo. Trớt quớt!
– Trớt quớt có vế sau hà cha. Khó chịu quá. Đi tu là phải.
– Ủa vậy bạn hổng có đi tu hả?
Ignacio Cường cau mày hỏi:
– Bỏ dừa vô có dễ thiu không?
– Tui kho tàu để mấy ngày trời hổng bao giờ bị thiu á.
Đức Cường cười nhếch miệng cười:
– Thiu là tôi thiêu anh luôn đó.
Henrico Thạnh mở bài “Ngôi tôn thờ” của nhạc sĩ Tô Thanh Tùng do Hương Lan ca lên nghe. Vết cắt hôm bữa liền rồi, nhưng dấu thẹo hãy còn nguyên-xi, chắc qua năm mới mờ nổi. Muốn nấu ăn thành thạo phải chịu đổ máu, muốn đi con đường của Chúa phải chấp nhận đau thương và bị công kích; anh ngộ ra điều đó nên luôn trưng ra gương mặt tươi cười và ưa chọc ghẹo người này – người kia đặng người ta không nhận ra những khổ sở mà anh đang chịu rồi nặng lòng quan tâm. Làm lụng cả buổi mệt lắm rồi, giờ còn phải nấu nướng nữa, thiệt là…
Do Stephen Đoàn và Henrico Thạnh đều bị cảm mạo nên chỉ có Longiuns Kiến, Ignacio Cường và JB Khải đi phát cơm.
Từ cái xe bán cà-rem dạo, tiếng hát của Duy Quang trong bài “Anh yêu Em nên yêu Sài Gòn” của nhạc sĩ Trần Chí Phúc vang lên thật êm dịu. JB Khải mua cho mỗi người một cây kem ống để ăn giải khát.
JB Khải chọn con hẻm được gọi là xóm nhập cư để phát cơm. Ngẫm tới chuyện thằng Cường bị chém khi đi ở đây, tự nhiên anh có cảm giác hơi rợn chân và lo âu. Dẫu sao anh và ông kia vẫn có mối ân oán khó phai, bây giờ mà đàn em của ổng nhào ra đánh úp anh cũng không biết đường đâu mà lần.
– Phát cơm hả con? – Một bà già bận đồ bà ba cũ mèm rướn người lên hỏi. Cái võng mà bà đương nằm treo tòn-teng nơi thềm nhà; con cháu mắc đi làm hết, lại thêm không biết xài máy móc tân kỳ, nên bà hay ra đây nằm hóng chuyện cho đỡ buồn.
– Dạ.
– Cho bà mười hộp được hôn? – Rồi như sợ đứa trai mặc đồ đen không cho, bà phân bua. – Thấy cái nhà lầu đẹp đẽ vậy chớ trong nhà vừa đủ ăn thôi hà con.
JB Khải lắc đầu cười hiền:
– Ai hỏi thì con cho. Xin ngoại đừng khó xử.
– Mà nấu món gì?
– Dạ, phá-lấu, gà quay chảo nước cốt dừa, cải ngồng luộc, cải chua với canh rau má nấu tôm khô.
Bà già mừng rơn:
– Mèn đét ơi! Ngon dữ hôn! Bà hổng lấy cơm đâu, bà lấy đồ ăn thôi con.
– Vậy chắc ngoại cũng khỏi cần lấy bánh mì với cá mòi?
Ngoại tặc lưỡi:
– Ờ, khỏi cần. Nhiêu đây là nhiều quá rồi.
Thấy bà Tám được lãnh quà, những người trong xóm mạnh dạn lại lấy. Không bao lâu mà “cái gùi” trên lưng chàng Linh mục đã nhẹ hẫng đi rất nhiều.
Chưa kịp tiến vào con hẻm rác giăng đầy lối, JB Khải đã bị hai người đàn ông trạc tuổi níu lại và khuyên, “Đừng có vô trỏng. Toàn dân hút chích – đ* điếm” không”. Một ông lão giao đồ mướn nhăn mặt, “Cho tụi nó chi cậu. Đám đó toàn ăn no rồi đi phá làng phá xóm không.” Một bà thím khác góp lời, “Hổng biết tụi nó làm gì ở trỏng mà trong đó thúi lan ra ngoài này. Thiệt. Cái xóm đang yên đang ổn, tự dưng không ông chủ đất bán lại cho thằng khứa đó chi hổng biết, để nó kéo bè kéo lũ dìa quậy ầm trời…”
Nhưng nghĩ đến chuyện Đức Jesus Kitô, JB Khải quyết định đánh liều mà đi lại đó thử; nếu được thì anh sẽ đứng ở đầu hẻm phát cơm, chứ không đi vào sâu hơn nữa. Những người dân đã lãnh cơm và bánh mì ở chỗ anh đã tản về nhà gần hết, duy chỉ còn ông lão giao đồ mướn là còn nán lại để trông chừng anh, tự dưng ông có linh cảm sắp có chuyện bất lành xảy đến với anh…
Những cô gái ăn sương nhận phần cơm của JB Khải mà rưng-rưng lệ. Thuở trước vì nghèo phải bán thân cấn-nợ, bây giờ vì đói nên phải bám lấy cái nghề tủi nhục này. Một mai không biết AIDS hay hoa liễu nó đưa mình đi nữa.
– Mấy chị muốn đổi nghề có thể liên lạc với các Dì bên Dòng Chúa Cứu Thế. Đây là thiệp của họ.
– Em có thể thành Sơ không anh?
– Tôi nghĩ là có thể, Thánh Nữ Maria – Magdalena là một minh chứng.
Chia tay với họ, JB Khải đi sâu hơn vào trong con hẻm.
Có lẽ đã được truyền tin nên những người sống trong đây đi ra nhận cơm rất nhiều. Sau một hồi đứng phát cơm, thùng cơm chỉ còn lại chục hộp; để về sớm hơn, JB Khải quyết định đi sâu hơn nữa.
Nhưng cũng như bao nhiêu con hẻm khác trên đất Sài Gòn, trong lòng của nó tỏa ra cả trăm lối, nên đi chưa được bao lâu mà JB Khải đã bị lạc. Một số người tốt bụng chỉ đường cho anh ra, nhưng anh gỡ được một mối lại mắc vào những thắt gút khác. Đi một hồi rã giò – mỏi cẳng, anh đành kiếm một góc nào đó mà ngồi nghỉ ngơi; lúc này chỉ còn lại hai hộp cơm, anh tính nếu hơn một tiếng nữa mà không có ai lấy thì anh sẽ đem cho chó hay mèo ăn, vì nước dừa dễ làm đồ ăn mau hư lắm.
Chỗ mà JB Khải nghỉ chân là bên cạnh một đống xà-bần của ngôi nhà hoang lạnh. Lại bị bóng của cây da sà đại thụ bao phủ nên càng âm u tợn. Vừa mở hộp cơm ra kiểm tra phẩm chất, JB Khải vừa nghĩ bụng sẵn ở đây có chó thôi thì cho tụi nó ăn luôn. Nắng Sài Gòn đã tắt mà sức nóng của ban ngày chưa nguôi, để hầm – để hì một hồi người ta ăn đau bụng chết. Mà phải công nhận nhà này sao hôi quá, hôi một cách dị thường và bất tường, anh đã từng lại xóm ve chai chơi thả diều với đám bạn nên biết rằng mùi này không phải xuất phát từ rác rến hay vật liệu xây dựng đổ nát. Chợt có con chó cái mình đầy ghẻ chóc lại rên ư ử với anh, ngó xuống mới thấy nó đang có bầu sắp đẻ tới nơi. Thấy nó “mẹ góa – con côi” nên anh động lòng thương mà cho nó một hộp cơm. Rồi nghĩ thầm chắc trong đây vẫn còn những con chó hoang nên đứng dậy đi tìm thử.
Những gì có thể đem bán ve chai đã bị người ta lượm sạch sẽ. Nhưng kỳ lạ thay, cái cầu thang lại rất kiên cố và dường như luôn được tu sửa. Nếu đã tu sửa cầu thang thì tại sao lại không làm luôn cái trần nhà? Những cọng sắt hoen rỉ và bê-tông cứ chốc chốc lại rớt xuống một mảng.
Mấy con chó hoang không thấy đâu hết, chỉ thấy mũi anh ngày càng bị ngợp bởi mùi xú uế tanh tưởi kinh khủng. Còn cách nhà sau chưa đầy năm bước, anh bỗng té quỵ xuống bụm miệng nôn trớ. Một cái xác bị mổ phanh bụng nằm úp mặt trên cái lồng gà. Máu nhuộm đẫm cái lồng và mặt đường quanh đó. Chưa kịp đứng lên, anh đã bị hai viên cảnh sát của Tổ Trọng Án khoá tay rồi áp giải lên xe riêng.
…
Đích thân dượng Bảy nắm tay kéo Cha Phó đi về quán mình mà ăn trưa.
– Cổ thắng tóp mỡ khéo lắm. Ăn rất ngon.
– Bây giờ tôi với Xuân là Meera và Krishna.
Trưa hôm ấy vợ chồng dượng Bảy chiêu đãi mấy ông Cha đáng tuổi con mình và gia đình ông Sáu Tửng món canh cá lăng-hơ nấu mẵng, khổ qua dồn thịt kho mặn, măng xào giò heo và tép mòng chấy dừa; ngoài ra không thể thiếu rổ rau sống và dĩa rau nhút luộc chấm với chao môn.
Henrico Thạnh ngó JB Khải mà cười khổ:
– Lên đồn sao rồi?
– Muốn “Lên đàng” luôn vậy.
Ignacio Cường vừa gắp cho Stephen Đoàn một khoanh khổ qua vừa hỏi JB Khải:
– Có nghi ngờ là liên quan tới Đoàn Tòng không?
– Không nghe ai đả động đến hết, chỉ toàn thẩm vấn về tôi thôi, như là tại sao lại chọn con hẻm đó làm địa điểm phát cơm mà không phải chỗ khác.
Dượng Bảy hướt:
– Vậy mà cũng giữ rịt một tuần.
– Dạ.
Dì Bảy hỏi:
– Rồi số cơm đó sao Cha?
Henrico Thạnh trả lời:
– Con với chú Sáu phát giùm.
Y-Nhã Cường nhíu mày hỏi:
– Còn hộp cơm dư đó ai ăn?
JB Khải đáp:
– Tôi ăn luôn.
Nghe vậy, ai nấy thảy đều bật cười ha hả.
Dượng Bảy chợt nghiêm giọng hỏi:
– Vậy ra rất có thể đây là con tin. Hung thủ hẹn phía cảnh sát tới hiện trường để nhận người, nhưng đã nuốt lời mà thủ tiêu con tin.
Y-Nhã Cường giơ tay cắt ngang:
– Nói tới đây thôi. Nói nhiều quá mất hay.
…
Rạng sáng hôm sau, chưa kịp lên nhà thờ sắp xếp lại văn kiện, một số máy lạ gọi đến đã khiến Stephen Đoàn phải dẹp bỏ ý định mà tức tốc ra quán cà-phê điểm hẹn. Anh mặc áo chùng thâm và mang giày giả da, anh muốn nói cho người đó biết rõ ràng về thân phận hiện nay của mình.
Chỗ ấy nằm gần khu vực Đại Sứ Quán Hoa Kỳ, là một quán cóc ven đường, mới sáng bảnh mắt mà đã đông người lại ngồi uống. Người đó đã kêu trước một ly bạc-xỉu và đang ngồi đọc báo giấy, trên trang nhứt đề: “Phát hiện thi thể của con tin nghi có liên quan tới thảm án “Bát Bửu”.
– Tôi với ông giống nhau nhưng chúng ta không phải cha – con, mà là người dưng nước lã. Bữa nay ông hẹn tôi ra đây là vì chuyện gì, nếu như là giúp ông trắng án thì thứ cho tôi không thể đồng lõa với ông được.
Đoàn Tòng nhếch miệng cười:
– Mẹ mày còn thiếu tao tiền viện phí đó con.
– Bao nhiêu bộ đồ lòng chưa đủ thỏa mãn lòng tham của ông và con mẹ kia sao?
– Mày là Linh mục, mày nói chuyện cho đàng hoàng một chút.
– Tôi không thích nói chuyện đàng hoàng với thứ dòng thất đức như ông!
Biết không thể thuyết phục được thằng con của người vợ cũ, Đoàn Tòng ngoắc bồi bàn lại và nói tính tiền. Nhưng Đoàn Ngọc Mỹ đã giành trả, dẫu ngày mai anh có cạp đất ăn đi chăng nữa thì hôm nay vẫn quyết vét túi “Trả hết cho Người”; anh không muốn mình nợ người này một xu nào hết.
Rời khỏi quán cà-phê, Stephen Đoàn thất thần đi lang thang vô định trên những con đường Sài Gòn đã dần cạn “Vùng lá me bay”.
Trong đầu chàng Linh mục xấu trai văng vẳng tình khúc “Buồn ơi, chào Mi” của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 với tiếng hát của Sĩ Phú:
“… Nếu trên đường Tình, Ta lẻ loi một mình
Thì trên con đường đời, Ta có Mi
Buồn ơi!”
Những cuộc biểu tình đòi lại tiền gởi ngân hàng hay bị gạt đổi qua trái phiếu vẫn còn nhưng không rầm rộ như hồi đầu năm. Đâu đó dư âm của “Đại thời đại” đang vang vọng trên mảnh đất ba trăm năm tuổi này.
Ignacio Cường gọi điện hỏi Stephen Đoàn đang ở đâu. Sau khi biết được địa chỉ, chàng Cha Sở liền tức tốc đi rước thằng bạn thiết.
Trong lúc đợi thằng bạn, Stephen Đoàn lắng nghe bài “Pure Imagination” do Gene Wilder trình bày. Anh luôn yêu thích câu hát “Wanta change the world, there’s nothing to it.” Có lẽ càng lớn anh mới càng nhận ra lòng tốt và sự hy sinh không thể biến con quỷ thành thần tiên, ngược lại còn khiến chúng khoái trá vì nghĩ rằng đã lợi dụng được người khác. Mẹ anh không thể, mà anh lại càng không thể…
– Mỹ!
Stephen Đoàn nhận lấy tờ giấy lau mặt trong sự ngỡ ngàng. Bấy giờ anh mới hay mình đã âm thầm khóc.
– Có chuyện gì?
Stephen Đoàn kể vắn tắt.
Ignacio Cường chở người bạn thiết đi vòng vòng Quận Nhứt để giải khuây. Cái chân của anh mai phải đi thay nẹp và làm sạch vết thương, cũng nhờ có quen biết với Mục sư Khiêm mà anh được đi chữa trị miễn phí ở bịnh viện Quốc Tế.
– Anh Thanh cho anh nhiêu tiền vậy Cường?
– Hai chục ngàn.
– Dữ vậy?
– Ảnh nói nếu gặp ai khổ thì san cho người ta một ít.
Quận Nhứt những ngày cuối tháng Năm thiên hôn địa ám, lác đác vài cơn mưa rào kèm theo dông – sấm ì đùng, nghe đài báo là bị ảnh hưởng từ một đợt áp thấp ngoài khơi. Bữa nay cũng vậy, còn cách Giáo xứ độ khoảng nửa đường thì trời chuyển mưa, thành thử hai chàng Linh mục phải ghé một quán phở gần đó ăn trưa sớm.
Tiệm này do một gia đình Kiến Hòa mở bán; đáng ra họ ở dưới quê mần vườn, nhưng vì thằng con vô Đại Học nên phải dọn nhà lên đây ở đặng kiềm giữ nó và kiếm lợi tức cao hơn. Và cũng bởi gốc gác miền Tây nên nước lèo nêm hơi ngọt và không nặng mùi ngũ vị hương, do đó ai ăn không quen sẽ cảm thấy không ngon và mau ngán.
Trong quán đang phát bài “Đường trần vạn nẻo” của Thanh Hà, đây la bút hiệu của nhạc sĩ Khánh Băng, do song ca Băng Châu – Bạch Quyên trình bày. Nghe đâu được vài câu, Stephen Đoàn buồn hiu ngó mông ra ngoài khoảng sân rợp bóng cây trứng-cá.
Dì chủ quán vừa đặt hai dĩa rau – giá xuống bàn vừa cười tươi hỏi ăn – uống gì mấy cưng.
– Tôi ăn hủ tíu. Tôi không ăn phở. – Stephen Đoàn nói.
– Tôi cũng vậy. Tôi ăn theo anh.
Vốn thích ăn giá sống nên Y-Nhã Cường kêu thêm hai dĩa rau – giá, rồi kêu luôn hai chén xí-quách xương bò.
Dân trong Nam có một món tương tự như phở bò đó là hủ tíu bò, nhưng nước lèo của hủ tíu bò thanh hơn cũng như không nặng mùi ngũ vị hương và luôn-luôn ăn kèm ngò-gai, hành-lá, rau thơm, giá sống với rau quế. Nếu vô Nam lần đầu tiên, thể nào cũng lầm lẫn hai loại này là một. Một tô hủ tíu bò thường có bò viên, nạm và gân; đương nhiên không thể thiếu tương ớt và tương đen. Phần đông hủ tíu bò rẻ hơn phở bò. Ngoài ra, hủ tíu bò ở Nam Kỳ chỉ xài rặt cọng hủ-tíu, và phở bò ở Nam Kỳ lại có tới hai loại cho khách lựa chọn: Một là bánh lớn (nhìn chung ngoài Bắc ăn dạng này nhiều) và Hai là bánh nhỏ (tức cọng hủ tíu, cọng này được trong Nam ưa chuộng hơn).
Xong bữa trưa ngon miệng, hai ông Cha hãy còn rất trẻ ấy lại nhà thờ của Hội Thánh Tin Lành Lutheran mà ghé chơi một lát. Không biết mua gì làm quà đãi đằng nhóm Mục sư, hai chàng bèn mua nước mía và mấy bịch bánh còng, bánh cam, bánh cay, bánh khoai-mì nướng và bánh-chuối hấp.
Nhà thờ Tin Lành vắng như chùa Bà Đanh. Hai chàng tưởng đâu không có ai tính quay về, nhưng bỗng nghe Hoàng Oanh diễn ngâm theo ý của bài thơ “Trả Ta sông núi” do thi sĩ Vũ Hoàng Chương chắp bút; đây cũng là một trong những bài thơ xứng đáng được đưa vô đề thi Quốc Văn:
“Trả Ta sông núi, từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha
Ngược vết thời gian, cùng nhắn nhủ:
“Không đòi, ai trả núi sông Ta?”
Ôi Việt sử là Tranh Đấu sử
Trước đến sau cầm cự nào ngơi?”
Sáu Nghệ đang soạn giáo án cho tiết Sử ngày mai, về thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp, anh vừa làm vừa nghe những bài thơ do người xưa diễn ngâm để có nhiều ý tưởng giảng dạy hơn. Trên Cung Thánh, mấy anh em của anh đang trang hoàng cho nhà thờ sau mùa Thương Khó – Phục Sinh. Nhân dịp Lễ Phục Sinh, anh em đồng Đạo đã tổ chức chương trình đố vui có thưởng cho Cơ Đốc nhân và đã mang đến rất nhiều niềm vui cho trẻ em nghèo ở thành đô. Nhưng mải lo suy nghĩ phương cách giảng bài nên anh nào hay huynh đệ của anh đã đi ăn trưa hết rồi.
– Hai Cha…
Stephen Đoàn sợ Ignacio Cường thẳng tánh quá không hay nên vội nói:
– Anh lớp trên của Emmanuel – Ngô Kỳ Anh.
– À, tới đây thăm lại người xưa. – Sáu Nghệ nở nụ cười hiền hòa. – Nó đang phụ với anh Hai và anh Ba ở nhà trên á. Hai vị nếu muốn gặp liền thì hãy đi lên trên trển.
– Hổng có ai ở trển hết đó anh. – Ignacio Cường cười khổ.
– Hả? – Sáu Nghệ giật mình, rồi hấp tấp mở điện thoại lên coi giờ. – Trời đất ơi, vậy mà cũng không chịu rủ tôi đi ăn chung.
Hai chàng Linh mục bèn mời chàng Mục sư ăn bánh – uống nước mía. Sẵn đang đói nên Sáu Nghệ nhận liền; anh cũng đang thèm ăn bánh-chuối hấp với nước cốt dừa.
Hai chàng Linh mục cúi đầu chào chàng Mục sư một cái. Ông Thầy Tin Lành cũng đáp lễ với hai ông Cha Công Giáo hệt thế.
Trong lúc đợi những người kia về, hai chàng rủ nhau đi ngắm nhà thờ. Thay vì lên gác chuông bằng thang máy, họ lại chọn đi bằng cái cầu thang bộ rất ư cũ kỹ mà tinh xảo này; mỗi bước chân của họ để lại những tiếng nện khá lớn và inh tai. Trước khi leo tiếp một cầu thang nữa, họ dừng lại trước căn phòng có dán bảng tên rõ ràng rằng: Mục sư Ngô Kỳ Anh. Xin quý khách vui lòng chờ ở dưới, đừng đứng ở đây đợi tôi.” Cửa phòng có tới tận hai ổ khóa, thiếu điều muốn lắp luôn ổ khóa điện tử để phòng ngừa khách không mời mà tới.
– Mình lên coi gác chuông thôi Cường.
Gác chuông không rộng mấy, kiểu dáng cũng tương tợ các nhà thờ Công Giáo. Và chuông này vừa là kéo tay vừa là dạng thảo trình sẵn, tức là đến đúng giờ sẽ tự động đổ chuông. Có lẽ những dịp đặc biệt họ mới kéo tay mà thôi. Đang thảo luận về quả chuông, hai người chợt ngó vô góc khuất của cái gác và thấy Manuel Ngô đang đeo một bên tai nghe Airpods mà gặm bánh mì.
– Kỳ Anh! – Ignacio Cường lớn tiếng gọi.
Manuel Ngô mừng rỡ vô cùng. Anh vội vàng lau miệng rồi hớt hải chạy lại chỗ của hai sư huynh năm xưa.
– Anh Mỹ, còn đây… chắc anh Cường hả? Anh Cường dữ nhất trường hả?
– Nó đó. – Y-Nhã Cường bật cười. – Nói chuyện riêng được không Anh?
– Dạ được. Mà ở đâu anh Cường?
– Một quán ruột của Stephen Đoàn bên Quận Thủ Thiêm.
– Xa dữ há?
Do sẵn đường rước con của Hai Nghĩa nên Năm Tường ngỏ lời mời Stephen Đoàn và Ignacio Cường đi xe của mình qua đó. Hai người không từ chối, liền theo chân chàng Mục sư Thần Kinh và đứa em cải “nhánh” ra bãi đậu xe.
Bên trong chiếc xe “Toyota – Highlander” thoang thoảng một mùi hương rất lạ; hỏi ra mới biết nó là sáp thơm “Febreze CAR – Midnight Storm”, thể theo lời giới thiệu của nhãn hàng thì đây là mùi bão dông lúc nửa đêm.
– Tôi thích mùi này. – Ignacio Cường vừa nói vừa khòm người bước vô băng sau. Stephen Đoàn cũng lục tục nối gót theo.
– Cảm ơn anh. – Năm Tường gãi mũi, ra vẻ ngượng ngùng lắm.
Mười Anh ngồi ở băng chót vì nhường chỗ cho anh họ của anh Năm. Võ Kiến Hữu mới xin được một chân ở tòa soạn Quốc Thái nên ngày nào cũng phải có mặt ở đó vào lúc một giờ trưa.
– Yêm, đân mứt khôn?
Mười Anh cười trừ:
– Em không thích ăn mực đâu.
Năm Tường cười:
– Ý của ảnh là ăn mứt không, chứ nỏ phải ăn mực mô.
Mười Anh le lưỡi:
– Thôi, ngọt lắm, với lại dính răng nữa.
– Mứt ngon rứa mà mấy người lại chê hỷ?
Năm Tường cãi:
– Nỏ phải chê mô, mà là bầy choa khôn thích ngọt, iêng hiểu chưa? Răng mà cứ ép người ta ăn ngọt theo mình hoài rứa iêng?
Kiến Hữu chỉ cười cười chứ không cãi lại chi sất.
– Mà iêng ăn suốt như ri không ngán hả?
Kiến Hữu bật cười khanh khách, chừng như đang bẹo gan thằng em họ:
– Khôn thấm béo mô vô.
Kiến Tường rùng mình:
– Yêm đân vài miếng là kiêng răng rồi, ở đó mà khôn thấm béo mô vô.
– Mà nè…
– Gì nữa?
– Lát cấm cho bé Hải ăn ngọt đó. Nó mập ú hà, mà cứ rình rình cho nó ăn hoài.
– Nỏ hứa trước mô.
– Lối ni chị Hai rầy rà dữ lắm.
Nãy giờ ba người kia ngồi nghe mà tưởng đâu mình đã hóa vịt, vì cảm tưởng bản thân lúc này giống hệt con vịt nghe sấm – hai bên y chang ở chỗ chẳng hiểu mô tê gì.
– Anh Hai coi bề sợ mạ tháp dữ hí?
Năm Tường cười khổ:
– Tôi còn sợ, huống chi là anh Hai.
Trường mà bé Hải theo học có tới ba xe cảnh sát đậu ở đó. Không chỉ để bảo vệ bé Hải mà còn vì an nguy của những người khác. Sang năm, đôi vợ chồng Mục sư sẽ cho bé Hải theo học trường tư để yên tâm hơn.
Bé Hải khoanh tay thưa từng người, rồi ục ịch lòn xuống băng chót. Biết tướng nó không lòn qua được nên Y-Nhã Cường đứng lên gấp ghế để nó có thêm khoảng trống mà dễ bước vô hơn.
– Ăn khoai lang ngào đường khôn con trai?
– Dạ ăn.
– Trời ơi!
– Đân vài miếng có chết mô mà yêm la Trời lớn rứa?
Bé Hải nói lời cảm ơn chú Tường, rồi mau lẹ mở bịch khoai lang ngào đường và cầm lấy lấy tăm tre mà xăm vô ăn lấy ăn để. Độ rày nó lên ký quá nên mẹ bắt ăn rau nhiều hơn ăn cơm, thành thử đi học về đói muốn xỉu, may nhờ có chú Tường cứu bồ nên nó không bị bất tỉnh nhân sự.
Chia tay với hai anh họ Võ và bé Hải, ba người bạn chung trường năm xưa lững thững bước thêm chừng trăm mét nữa để vô quán nước ven rừng.
Đón họ vào quán là bản “Định nghĩa một động từ (Định nghĩa mộng động từ)” của nhạc sĩ Anh Thái với phần trình bày của Mỹ Thể:
“… Yêu là chỉ cho chứ không hề xin
Yêu dù cách non cũng đi tìm thôi
Yêu cho xa vắng, cho hững hờ
Yêu bao năm tháng, bao cũng chờ
Chờ mòn ngày đêm nữa thôi…”
Y-Nhã Cường ngó sang Stephen Đoàn, có những thứ không thể nào dứt ra trong một sớm một chiều được.
“… Yêu là tiếng êm ái trên đầu môi
Yêu là chỉ cho nhau một lần thôi
Yêu cho mấy núi, Ta vẫn trèo
Cho sông mấy khúc, cho mấy đèo
Đường trần còn bao vẫn qua…”
– Vô chỗ ngồi đi Mỹ.
Stephen Đoàn lắc đầu cười khi mình. Rồi thở hắt ra một hơi trước khi theo chân người bạn đồng quản xứ và em trai lớp dưới tìm bàn để ngồi uống nước. Vừa muốn chễm chệ làm Linh mục vừa muốn làm Cha Ralph, tội ấy muôn đời cũng không rửa sạch nổi.
Chỗ mà họ chọn nằm dưới giàn bông giấy giống Cẩm Thạch. Tán hoa rất dày, lại thêm hưởng sái bóng mát của cây linh sam đại thụ, nên dẫu không có dù che nhưng vẫn mát như ngồi trong phòng có gắn máy lạnh. Bàn – ghế đều đan bằng lục bình và sợi mây, tuy cất dọn nhẹ nhàng nhưng cực cái khách mà làm đổ cái gì lên trên trển thì lau chùi – tẩy rửa rất lâu mới hết. Mặc dầu đi có ba người song nhờ quán vắng nên họ thoải mái ngồi xuống chỗ dành cho sáu người đổ lên; mỗi người ngồi một hướng, hướng không ngồi là hướng bắt nắng và nằm cạnh bậc tam cấp dẫn vô nhà sau của quán.
Manuel Ngô chọn một ly đậu đỏ chan nước cốt dừa dầm đá bào, Ignacio Cường kêu một ly đậu xanh – rau má pha với nước dừa xiêm, còn Stephen Đoàn thì gọi một ly trà bạc hà có vắt xíu nước chanh-giấy. Thời tiết hầm hì như lò hỏa thiêu đã khiến ba chàng không nuốt nổi cà-phê, dù chỉ là một giọt thôi cũng chịu đựng không thấu.
JB Khải, Henrico Thạnh, Antonio Vũ và Louis Quới đã theo sau đuôi họ tự bao giờ mà không người nào hay, chỉ khi Henrico Thạnh vẫy tay chào và cất tiếng gọi thì ai nấy mới giựt mình mà ngoảnh lại nhìn.
Bà chủ quán thấy có thêm khách thì mừng húm, vừa chạy ra rước vừa cười ngỏn ngoẻn hỏi, “Uống chi mấy cưng?”
– Uống nha… Hổng có ca nha… Ca là tôi cho chú toại nguyện đó. – Y-Nhã Cường dằn mặt trước.
– Rồi, rồi, tôi hổng có muốn ăn cái ca của Cha đâu… Chị cho tôi một ly bình-bát dầm sữa đặc nhe? Sữa Ông Thọ mới uống đa, chớ Ông Phước hay Ông Lộc là không chịu đâu.
– Sữa của con mẹ ngoại quốc uống hôn?
– Sữa gì?
– “Cô gái Hà Lan”. Tui làm mà chú hổng uống là tui cho chú đi sửa răng liền á.
JB Khải uống hạnh muối, Henrico Thạnh thì lấy một ly sinh-tố mãng cầu, và sau một lúc ngập ngừng, Antonio Vũ mới biểu cho mình một ly hồng trà sữa thập cẩm cỡ lớn.
Trước lúc bắt đầu buổi thảo luận, Y-Nhã Cường mời mọi người cùng đọc Kinh và làm dấu Thánh. Manuel Ngô chiều ý và làm theo lễ nghi bên Công Giáo luôn cho gọn.
Cháu gái của bà chủ quán đứng ngó trộm nguyên nhóm qua ô cửa sổ hình bán nguyệt. Không biết hai anh Cha kia người xứ nào mà da còn trắng hơn mấy mẹ bán kem trộn, mặt mũi vừa đẹp lại tướng mạo rất hiền và nho nhã; dòm xuống thân thể mình, đứng gần không khác chi là cục than đước Cà Mau bị lửa thiêu cho đen thêm vậy.
– Rồi sao… – Y-Nhã Cường cau mày ngó An-Tôn Vũ.
– Sao là sao?
– Nghe đâu hồi xưa cậu bị bắt oan và bị tạm giam mấy tháng, có thể kể rõ hơn được không?
Sẵn có các anh em cùng Dòng, An-Tôn Vũ buồn bã thuật lại chuyện oan ức năm xưa; không quên kể nốt những năm tháng đoạn trường đi điều trị tâm lý do ảnh hưởng từ trận đòn thù kia.
Louis Quế trầm ngâm bình phẩm:
– Vậy ra khứa đó đã giả làm Cha Thành từ rất, rất là lâu rồi.
– Phải. – Manuel Ngô hướt mà nhận xét.
Stephen Đoàn kể:
– Xuân nói mẹ tôi giúp ba tôi được hai năm mấy thì mất. Còn trước đó ông có từng làm cò hay không thì Xuân nói không biết.
Ignacio Cường khoát tay:
– Nhưng mà trước lúc má anh bịnh hay là trong khi?
– Tôi cũng không rõ nữa. Chỉ biết lúc bà vô nhà thương là bác sĩ thông báo giai đoạn cuối rồi. Có thể do thờ ơ nên bà đã không để ý tới các triệu chứng tiên khởi như sốt dai dẳng, tụt máu bất thường,…
JB Khải hỏi:
– Vẫn chưa điều tra ra ai đã sửa khuôn mặt của Cha Thành à?
Manuel Ngô nhớ lại lời của anh Hai Nghĩa nên trả lời rằng:
– Ra rồi anh. Nhưng gia đình ông ta đã bay sang Mỹ sống từ rất lâu rồi. Nói cụ thể hơn là sau ca mổ ghép thận cho nhỏ cháu, ổng đã ôm tiền dzọt qua bên bển luôn.
JB Khải phản bác:
– Không phải cháu của ổng đâu, mà là con gái của một phó ban trong đường dây buôn lậu và mổ cướp nội tạng. Vì Cha Thành hiến thận lúc đã cao tuổi nên trái thận của Cha chỉ xài được vài năm mà thôi, do đó khứa phó ban đã đăng tin cần mua thận, một người đàn ông “gà trống nuôi con” đã đồng ý thỏa thuận ấy để cứu lấy mạng sống đứa con bị suy yếu hệ miễn dịch và tìm kiếm tương lai cho gia đình mình; bây giờ hai bên đều đã ở Mỹ và coi nhau như bà con ruột thịt, thành thử không dễ gì cạy miệng người đàn ông bán thận đó đâu.
– Sao rành dữ vậy? – Ignacio Cường nhướng mày cao một khúc.
– Có người… nói cho tôi biết.
Chàng Cha Cọp nhếch miệng cười:
– Anh còn “Tình cờ” hơn Trần Thiện Thanh nữa.
Manuel Ngô và Antonio Vũ ra hiệu với nhau bằng ánh mắt.
– Còn cặp “Song Sát” này đang giấu giếm điều chi nữa? Cọp này thành tinh rồi nên mắt sáng dữ lắm.
“Song Sát” chột dạ mà cùng lắc đầu một lượt.
Nói tới đây, tự nhiên ai nấy lặng thinh. Mỗi người đều đuổi theo một suy nghĩ riêng tây của mình. Có hay không chức Thánh mà họ đang có cũng là do bàn tay con người nhúng vô theo ý hướng của Quỷ Satan? Ngoại trừ Henrico Thạnh và Ignacio Cường, những chàng trai kia đều có cái dớp có thể khiến cho họ không thể trở thành Linh mục. Vậy mà…
Tiếng hát của Sĩ Phú trong bài “Lặng lẽ” của nhạc sĩ Tiền Chiến Lâm Tuyền lại gợi cho Stephen Đoàn một nỗi buồn khôn nguôi. Lâm Tuyền cũng như Đặng Thế Phong, dù sáng tác không nhiều nhưng toàn bài hay, và nhạc phẩm nào cũng là một thiên “Thất Tình ca” vạn cổ sầu.
– Anh thích ngồi ở đây là vì quán này chuộng phát nhạc Tình sao? – Y-Nhã Cường hỏi Stephen Đoàn.
– Không, tôi thích ngồi ở đây là vì quán này rất yên tĩnh, nếu đông quá thì cũng không ồn ào lắm, nên tôi ưng bụng mà thôi.
An-Tôn Vũ và Mạn-Hòe Anh đã đi mua mấy ly trà sữa để cho xấp nhỏ bán vé số uống. Dáng dấp và nước da của hai người y hệt nhau nên ngày xưa ở trường ai cũng tưởng họ là thân nhân với nhau.
Sau khi đã biết thêm chi tiết về thằng khứa giả mạo Cha Thành, và cũng vì lo lắng cho tánh mạng của JB Khải, mọi người quyết định kết thúc buổi trò chuyện.
Giáo xứ vẫn như mọi ngày, và chẳng khác cái thời Đức Cha Trung là bao. Nghe đâu phía Đông xóm Đạo sắp được mở lộ cái ăn thông với một nhánh dẫn lên xa lộ nên nhiều người muốn mua lại khu đất này để xây dựng các công trình sầm uất sinh lời.
Ignacio Cường ra Đài Đức Mẹ mà quỳ xuống lần chuỗi và đọc Kinh Mân Côi. Do chân trái bị chém lặt lìa nên anh chỉ có thể quỳ một gối phải, còn cái chân kia ráng hết sức mà ép cho nó nằm xuống. Xế trưa nắng nóng như đổ lửa, bóng mát của vầng hào quang nơi bức tượng Mẹ Maria ôm lấy thân hình thằng con Mục tử của Bà. Những giọt mồ hôi trên mặt anh rớt xuống nền xi-măng rồi mau chóng bốc hơi vì nhiệt độ khủng khiếp của những ngày đầu Hạ.
Xong giờ Kinh, Y-Nhã Cường chật vật đứng dậy. Nhưng cái chân què của anh đã làm hại cái chân tê rần, anh loạng choạng mấy bước rồi kê đầu vào ngay chân tượng Mẹ Maria…
– Cường!
Bàn tay của bà thím đã kịp thời ghị Ignacio Cường lại, xém chút nữa là anh đã bể đầu rồi.
– Cảm ơn thím. Hú hồn hú vía.
Bà thím bán rau-câu, si-rô và sữa-chua dạo đã bị trật tay vì ráng hết sức kéo ông Cha Sở. Vậy là anh bèn lấy dầu cù-là ra mà nắn gân lại giúp bà. Sau hơn mười phút, tay bà mới bới đau nhức và đã cử động được như thường. Hai cô – cháu ngồi trên bậc tam cấp của Linh Đài mà thở như chưa từng được thở; một người thì đau tay, còn người kia thì đau chân, và người nào người nấy đều ú tim hết.
– Thím…
– Sao con?
– Khảo sát xíu nghen?
Bà thím vừa cười rổn rảng vừa lấy nón lá quạt cho ông Cha Sở đỡ nóng nực.
– Thím thấy cậu Mỹ sao?
Bà thím ngỏn ngoẻn cười:
– Thím thích xưng tội với thằng Mỹ. Con biết sao hôn Cường? Vì nó không bao giờ nổi nóng hay nhiều chuyện mà hỏi sấn tới; cứ thinh lặng những lúc con Chiên cần và lên tiếng những lúc con Chiên muốn, thành thử xưng tội với nó xong tự nhiên trí óc khỏe khoắn lạ thường, không còn dàu dàu mệt mỏi hay nơm nớp lo sợ nữa.
Y-Nhã Cường gật đầu, đoạn hỏi tiếp:
– Còn vụ ảnh với cô Xuân?
Bà thím tự dưng trở về thời thanh xuân. Đôi mắt bà mơ màng nhìn về chiếc phi cơ chở khách đang bay trên nền trời không có lấy một gợn mây:
– Con Xuân thương nó cũng đúng mà. Ai mà không mến một người hiền đức và ẩn nhẫn như dzậy.
– Thím thấy họ có tội lỗi không?
– Thím không biết nữa. Thím đã từng yêu nhưng người yêu của thím đã ở lại Charlie rồi. Người chồng hiện tại chỉ là mối mai đưa đẩy… Trời, thím vô duyên quá! Hỏi một đằng, trả lời một nẻo.
– Con cũng có thương một người.
– Hả?
– Đó là lần đầu tiên mà con thương một người, con biết vui khi ở gần người đó và biết mong nhớ khi xa người đó.
– Rồi sao nữa?
– Rồi thôi. Đó là một người bạn tri âm tri kỷ của con.
Bà thím đập nhẹ vô lưng ông Cha đáng tuổi con mình mà cười tủm tỉm:
– Bây làm thím đứng tim hà.
Ngó xuống cái thùng hãy còn nằng-nặng, bà thím hoảng hồn đứng dậy và vỗ vai ông Cha Sở mà dặn:
– Chừng nào tới phiên nó Giải Tội, con nhớ hú thím một tiếng nghen?
– Dạ, con chúc thím buôn may bán đắt nghen.
Tự nhiên chàng Cha Cọp thèm được nghe lại giọng nói của Thanh Liên. Vốn nóng tánh nên ít có ai ưa nói chuyện với anh, ngoại trừ Kỳ Thanh là chịu đựng được với sự kiên nhẫn thực lòng chứ không phải giả bộ bải buôi để lấy lòng. Trong xứ, cứ hễ tới ngày Xưng Tội là Giáo dân đồng lòng chọn Stephen Đoàn, do anh không khống chế được lời ăn tiếng nói nên hay làm mích lòng bà con; dẫu bây giờ bạn anh có phạm phải Điều Răn Thứ Sáu một lần nữa, anh tin chắc rằng bà con vẫn “bỏ phiếu” cho bạn anh.
Đi được một đoạn đường, một người đàn ông đã ngũ tuần níu Đức Cường lại mà hỏi:
– Ai là người đứng ra giải tội cho hai Cha vậy?
– Đức Tổng Giám Mục Gabriel – Đinh Thái.
– Hồi nào?
– Sau Tết Ta vài bữa.
– Hèn chi mà Cha Mỹ vẫn còn tư cách thực hiện Bí Tích và thực hiện Thánh Lễ.
Stephen Đoàn đang ngồi soạn bài giảng trong nhà thờ. Bên tai anh văng vẳng tiếng hát của Perry Como trong bài Thánh Ca “Bless this House”; chiều nay anh sẽ đi phát cơm cùng Richard Lãm và Jacob Nhượng, có lẽ tới tối mịt mới về. Anh đã từng hỏi Trì Thương rằng tại sao anh ta lại có thể dứt khoát được với Hoàng Lan; thì anh ta trả lời là, “Bởi vi ngày từ đầu tôi đâu có cảm tình với cổ.”
Từ sau cái hôm bị giữ trên đồn thẩm vấn cả đêm, JB Khải không rời xứ nửa bước theo lời khuyên của cảnh sát trưởng; bữa nay anh đã phá lệ để cứu bạn mình. Có kẻ đang muốn dồn Stephen Đoàn vào chỗ chết nên trước hết phải bứng được những người có thể đứng ra minh oan và bảo vệ ảnh. Thành thử dẫu chồn chân muốn chết nhưng anh không dám đi đâu ngoài vòng xóm Đạo.
– Ăn gì chưa Cha?
– Chưa ngoại.
– Vậy vô nhà ngoại ăn cơm chung cho vui.
Mâm cơm sớm của hai bà cháu có món cá bống kho tiêu và tóp mỡ chấm với đậu rồng và kèo-nèo, mắm chưng, cá-hấp chiên và canh riêu cua – rau đay – tôm khô. Bộ ván nhỏ xíu nên gia đình mời ông Cha ra sân trải chiếu ngồi ăn cho mát; ngôi nhà này ước chừng ba mươi mấy mét vuông, nhờ xây trần cao nên không ngợp và cũng để được nhiều đồ hơn.
Trước lúc dùng bữa, JB Khải đọc Kinh và làm dấu Thánh. Hai bà cháu kính cẩn làm theo. Một, đôi phút chia trí đã làm anh nghĩ về Thanh Liên – Đới Kỳ Thanh, người đã làm cho anh lưu tâm đến Đạo Phật, người gì mà “sao cũng cãi được” hết.
– Cha. – Cô cháu gái khẽ khàng gọi.
– Dạ?
– Bộ đồ ăn không hạp hay sao mà Cha chưa chịu bưng chén lên vậy?
– À… – JB Khải nhếch miệng cười trong cái lắc đầu nhè nhẹ. – Tôi nhớ một người mà thôi.
Vì chuyện của Cha Phó nên ngoại đâm ra sợ hãi:
– Cô nào hả Cha?
– Thưa không, là một Tăng sĩ “đẹp gái” mà thôi. Con và cái anh đó đã có vài buổi tranh luận về chủ đề tôn giáo rất sôi nổi.
– Ai thắng Cha? – Ngoại vừa hỏi vừa dẻ con cá-hấp.
JB Khải không đáp mà chỉ cười mủm mỉm.
Sau bữa cơm, JB Khải ghé nhà của ông Thầy Sáu để coi ảnh – chỉ cất nhà tới đâu rồi.
Ngôi nhà tọa Bắc – hướng Nam nên nhà trên ban ngày rất sáng và nóng bức, đôi vợ chồng cách nhau một giáp bàn tính sẽ lắp máy lạnh ở đây và ở nhà dưới luôn, dầu gì cũng tốn tiền điện thôi thì chịu khó cắn răng trả thêm một mớ cho sức khỏe tốt hơn vậy. Phòng ngủ của vợ chồng chú Sáu nằm dưới tầng trệt, kế bên gian bếp, diện tích khá nhỏ vì phải nhường chỗ cho những khu vực khác của nhà sau; đáng lẽ ảnh – chỉ đặt phòng ngủ ở trên gác, nhưng nghĩ tới việc mười năm nữa xương cốt của Thầy Sáu không còn mạnh nên quyết định đặt ở tầng trệt. Cửa hậu nằm sát với phòng ngủ, dẫn ra một khoảng sân con dành phơi đồ và giặt giũ; thể theo ý của chị Sáu, chỗ này làm thêm một cái sàn nước để chị dễ bề ngồi chồm hổm giặt tay và mần cá – thịt, chú Sáu cũng sẽ có chỗ để rửa xe và lau chùi những món đồ mình muốn. Cầu tiêu – nhà tắm nằm cạnh cửa hậu, vách tường-ngoài mé tay mặt được tận dụng làm sóng chén và nơi đặt máy rửa chén; do khá lùn nên chị Sáu phải dựng sẵn cái thang ba bậc có thể gấp lại được ở dưới chân tường đặng leo lên lấy đồ. Bồn rửa nằm hướng mặt ra khoảng sân, có cửa sổ cao gần đụng trần nên gió lùa vô mát lắm và ánh sáng cũng thâu vào rất tốt; bên dưới bồn rửa là mấy cái sọt rác, phân loại theo từng nhãn khác nhau. Bếp nấu nằm đối diện với sóng chén, phía tả có trổ một cái cửa sổ hình chữ-nhựt đứng cao từ sàn lên tới trần – dưới chân cửa sổ đặt một chậu cây Kim Ngân xanh mướt, chậu cây này là do ảnh – chị mua trong lần đi chơi Tết, lúc bấy giờ hai người vẫn còn son rỗi, chưa bị con cái làm phiền. Góc còn lại của nhà sau đặt một bộ bàn ghế có thể gấp gọn, số chỗ vừa đủ cho mười người ngồi.
– Tôi thì muốn dời bộ bàn – ghế ăn sát cái cửa sổ này nè. Còn ổng thì đòi kê sát cái cửa sổ đứng. Cậu thấy sao cậu?
– Tôi thì lại tính khác. Tôi thích dời phòng ngủ sát nhíp với nhà trên. Còn cầu tiêu – nhà tắm thì dời qua mé tả nhà sau; mình có thể xây bồn bông rồi dựng hàng rào gạch để ngăn người ngoài dòm ngó hay đột nhập vô.
Mấy ông thợ hồ ngó đôi vợ chồng chinh tuổi mà kêu Trời. Mới đổ có cái nền, chưa kịp cứng, đã nghe hai người này cự nự và bàn tới tán lui rồi.
– Tính sao cho kỹ đi nha. Mốt xây lên rồi kêu tụi tui sửa là hổng có tiền nuôi con luôn đó.
– Dạ, tôi biết mà anh Hai. – Sáu Quới cười rộ lên.
Ông anh Hai người dưng trề môi cả thước:
– Xây nhà mà hai đứa bây nói nghe quởn xo.
– Tôi là hình ảnh minh họa cho “Người vợ nghèo” của Trầm Tử Thiêng đó.
Không muốn ý kiến của mình làm cái nhà của vợ chồng ông Sáu thành cái chuồng heo, nên sau một lúc ở chơi với ảnh – chỉ, JB Khải xin phép cáo từ.
JB Khải khe khẽ hát bài “Tôi đi giữa hoàng hôn” của nhạc sĩ Văn Phụng. Đối với anh, vẫn là “Người tình muôn thuở” của ông ca hay nhứt.
– Cưỡng! Sao trèo nhà người ta?
– Sửa giùm cái máng-xối, Cha ơi! Rồi ăn mận hôn? Tôi đu qua hái cho mấy chùm.
– An toàn thì leo, không thì đi xuống giùm cái!
Một tiếng rầm như Trời gầm đã làm JB Khải thót tim.
– Nó xuống đất còn lẹ hơn đi thang máy.
– Chời quơi, hổng đỡ người ta dậy mà còn chọc quê.
– Mày nằm y như lúc thằng Tám – con bà Bé Ba hoạt cảnh Chúa Jesus bị đóng đinh vậy.
– Trời ơi, chuyện “Hai mùa mưa” mà ổng còn nhớ nữa.
Henrico Thạnh không biết tới đây tự bao giờ mà lẹ chân nhảy qua bờ rào trà để tới bên Cưỡng mà đỡ chàng ta dậy.
– Ngày mốt tôi về Kiến Hòa rồi.
– Vậy mai tôi phải đòi Cha Thạnh nấu một mâm nhậu mới được.
Tối đó, các thiếu nhi trong xứ tụ họp ở hội trường để coi phim hoạt hình và học Giáo lý. Nhờ có món tiền của Thanh Liên mà những đứa trẻ được ăn kem ngon thỏa thuê.
– Trong bộ phim “Willy Wonka and the Chocolate Factory” có đề cập tới Chat GPT, điều thú vị là bộ phim này được sản xuất vào những năm cuối Thập niên Sáu mươi và đầu Thập niên Bảy mươi. – Y-Nhã Cường giới thiệu.
Thông qua những tình tiết trong phim, Ignacio Cường hướng các em nhỏ về với Thánh Kinh một cách rất dễ hiểu và dễ thuộc. Anh mượn những thói hư tật xấu của nhóm nhân vật đồng hành với Charlie để giảng cho thiếu nhi trong xứ hiểu tại sao những hành động này lại phạm vào Điều Răn, cũng như cách sống tốt đẹp của Charlie ứng với khoản nào trong “Kinh Mười Bốn Mối”. Phần đông các em nhỏ đều mạnh dạn trả lời và nêu quan điểm riêng của mình; và vì biết mỗi bé mỗi tánh nên dù nhiều đứa không chịu phát biểu, tụi nó vẫn được nhận một phần quà là cây kem Đài Loan thật ngon và mát lạnh. Tại sao phải bắt đứa trẻ hướng nội cư xử như đứa trẻ hướng ngoại kia chứ?
Sao buổi xem phim, những Linh mục ở lại dọn dẹp hội trường.
– Cảm ơn anh. Nhưng tôi không thích ăn ngọt.
Vậy là Y-Nhã Cường bèn lựa cho ông Cha Phó cây kem “Shao Mei – Soda and Citrus Ice cream bar”, với lời cam đoan cái này không hề quá ngọt.
Stephen Đoàn vị bụng cầm lấy mà ăn.
Ignacio Cường thì chọn vị “Grass Jelly and Milk Ice cream bar”; cây kem nay y chang ly trà sữa bỏ sương sáo rồi đem đi đông lạnh, ăn vừa lạ miệng lại không quá ngọt nên chàng Cha Cọp rất ưng. Ở gần Thanh Liên riết tự nhiên anh không còn ác cảm với gluten nữa.
Stephen Đoàn hỏi:
– Anh nghĩ sao về bản mới của phim này?
– Bản 2005 của Johnny Depp hả?
Stephen Đoàn gật đầu.
– Ông John đóng điệu đà quá nên khiến hình tượng Willy Wonka trở nên mất tự nhiên và khiên cưỡng. Còn bản này ông Gene không có gồng thái quá thành ra vào vai rất ngọt và vừa mắt tôi.
– Ừ, nhưng bản cũ dựng cảnh xấu hơn bản mới.
– Thập niên Bảy mươi sao so sánh nổi với kỹ thuật Nhị Phân những năm 2000.
Stephen Đoàn tiếp:
– Và nhiều người cũng chê bản cũ thay đổi nội dung trong nguyên tác nhiều quá.
– Và bản mới dàn diễn viên lại ăn bận không hạp thời đại trong nguyên tác.
Longiuns Kiến chen vô:
– Theo một diễn đàn phê bình phim nổi tiếng thì bản cũ lại được chấm điểm cao hơn bản mới, dĩ nhiên lời khen cũng nhiều hơn bản mới luôn. Song ngặt nỗi ông tác giả lại chê bản cũ thậm tệ và vợ ông tác giả lại tán thưởng bản mới không ngớt tiếng.
Augustino Dương biểu:
– Nhưng khổ cái bản nào cũng nhờ diễn viên đóng vai Willy Wonka mà bộ phim không bị lỗ sặc gạch.
Joseph Thành lắc đầu cười trừ:
– Cuộc chiến giữa tác giả và khán giả.
Thầy Dự bảo:
– Muôn đời muôn kiếp.
Henrico Thạnh pha lửng;
– Nhiều lúc ông tác giả viết tào lao thấy mồ, ông đạo diễn thấy vậy mới ngứa mắt sửa lại, thì…
Louis Quế cũng bỗng đùa.
– “Cha đẻ” với “Cha đỡ đầu” tử chiến quyết liệt.
Ignacio Cường gật đầu:
– Bản cũ bỏ vốn có ba triệu Mỹ kim, bản mới gần hai trăm triệu Mỹ kim, dẫu có lạm phát đi chăng nữa cũng không bằng một góc của vốn của bản mới, hỏi sao bối cảnh bản mới không hơn bản cũ cho được?
Louis Quế bỗng đổi chủ đề:
– Có cái cậu diễn viên nào đó đóng vai Hoàng tử Ai Cập và bị chê không đủ đen để đóng vai này. Cẩu mới nổi xung mà đăng đàn đáp trả rằng, “Tôi là người Ai Cập rặt. Căn cớ nào mà các người lại nói tôi không phải là người Ai Cập nên không xứng đáng đóng vai này hả?”
Longiuns Kiến bật cười ha hả:
– Tính đưa Châu Phi vô đóng vai Hoàng tử Ai Cập hay gì?
– Thì đó. Bữa nay đưa Nữ hoàng Cleopatra cho người da đen đóng rồi. Một nữ diễn viên Ai Cập tức quá nên đã đăng đàn nói rằng đây là hành động chiếm đoạt bản sắc dân tộc nước tôi một cách trắng trợn – Bài diễn văn của cổ dài lắm, tôi chỉ rút ra một ý rất nhỏ trong bài gốc thôi.
Henrico Thạnh le lưỡi:
– Con nghĩ chắc ông tướng Antony sẽ không tạo phản trong bộ phim đó đâu.
– Cha Mỹ.
– Sao con?
– Cha ca được hôn Cha?
– Không, cổ họng Cha còn đau lắm con. Nhưng có thể chơi đàn được.
Sau một hồi suy nghĩ, Stephen Đoàn chơi bài “Mariage d’Amour” của nhà soạn nhạc Paul de Senneville.
Đã lâu lắm rồi Ignacio Cường mới thấy Stephen Đoàn chơi dương cầm. Anh có thể cảm nhận được nỗi đau của người bạn thiết trên từng phiếm đàn. Bất giác, anh nhớ lại nụ cười của Thanh Liên, rồi so sánh với ánh nhìn của Ngọc Mỹ đối với cô Xuân; một đằng là Tình Bạn và một đằng rành rạnh là Tình Yêu.
– Cha chơi lại bằng khẩu cầm được không?
– Được.
Có lẽ khẩu cầm là sở trường của chàng nên khúc nhạc mà chàng cất lên còn nghe thảm sầu và tuyệt diệu hơn ban nãy rất nhiều.
– Mày mà diễn tuồng “Chuyện tình Liên và Cường” là tao cho mày đi luôn. – Augustino Dương gằn từng tiếng một.
– Con nói rồi. Con coi Thanh như một người bạn tri kỷ thôi. Ai cũng ghét cái tánh nóng và ương ngạnh của con hết, ngoại trừ cẩu mà thôi.
Đêm nay Stephen Đoàn qua phòng Ignacio Cường ngủ chung. Hai đứa có rất nhiều chuyện muốn nói với nhau về bên đời lẫn bên Đạo mà không muốn ai nghe thấy nên mới chọn cách ai ngủ chung.
Vì là giường đơn mà phòng lại nhỏ nên một người phải nằm dưới sàn; Y-Nhã Cường nhường Tê-Pha-Nô Mỹ lên giường nằm, còn anh thì ngủ ở dưới.
– Trước giờ chẳng có đối xử với tôi dịu dàng như Kiều Xuân.
– Tôi cũng vậy. Có ai chịu ngồi nghe tôi nói đâu, ngoài Kỳ Thanh ra.
– Tại anh nóng tánh quá…
– Còn anh thì sao? Mặt mày suốt ngày cứ chù ụ, chù ụ y như ai ăn hết của.
– Thấy hôn? Thấy hôn? Mới nói có một câu mà anh đã nổi sùng rồi.
Y-Nhã Cường gãi đầu cười khổ.
…
Thể theo ý của bà con xóm Đạo, Henrico Thạnh quyết định thết đãi một bữa tiệc linh đình; ai có tiền thì hùn, không có tiền thì góp của, không có cả tiền và của thì lại phụ một tay cho vui, và nếu như không có sức khỏe để giúp thì xuống bếp ngồi đuổi ruồi và thằn lằn cũng được.
Được sự giới thiệu của Cha Longiuns Kiến, con trai trưởng của cố Phêrô Toàn tới lò thịt quay của cháu gái Cha mà đặt mua heo. Tới chừng đến nơi mới vỡ lẽ thì ra ông muốn cho bảy con heo quay nhưng vì sợ bà con đòi trả tiền nên phải kiếm cách “dụ” ra đây.
– Đám giang hồ đó bị đám giang hồ khác đánh bầm dập rồi.
Còn ai trồng khoai đất này ngoài anh Hai Dũng của chàng Cha Cọp. Hay tin em bị chém, con cọp chồn chân mỏi gối đã liên lạc với đám bạn tứ chiếng chưa hoàn lương và cậy tình huynh đệ năm xưa mà nhờ xử đám kia giùm. Cho nên mới có một cuộc tử chiến long trời lở đất khuya qua.
“Rầm.”
Ignacio Cường đập tay xuống mặt bàn i-nox mạnh đến nỗi bị trật luôn khớp.
– Cha… Cha bị lọi tay rồi…
Một người Quân Y mau chóng lại nắn khớp cho ông Cha Cọp. Coi bộ anh sợ ông Cha Triều còn hơn mấy ông “Tướng – Tá – Sĩ – Úy” nữa.
Longiuns Kiến chở Gabriel Thái và Raphael Lễ xuống đây bằng chiếc xe “Jeep – Rubicon” của mình. Tuần trước vợ của thằng Sáu Tửng đã lại hãng lấy xe rồi, chiếc xe gắn máy ấy hiệu “Attila – Elizabeth” màu phấn hồng rất dễ thương, em trai của ông còn tặng luôn một cái thùng nhựa gắn ở sau yên để chứa đồ và một cái nón bảo hộ màu hồng nhạt dán decal hình “Hello Kitty”; tiền thì chừng nào trả cũng được, còn không muốn trả thì thôi.
Vì có nhiều người trà trộn vô ăn chực nên bà con trong xóm không để tâm tới. Miễn sao đừng chôm chỉa là được, còn đói thì cứ ăn – khát thì cứ uống, Thầy đã dạy như vậy mà.
Người trai được Stephen Đoàn mời cơm hôm bữa đang ở đậu trong một phòng của lưu xá. Vốn khéo tay nên anh ta đã được một công-ty chuyên sản xuất và tạo hình các loại vật liệu xây cất nhận vô làm, lương tháng nghe đâu cũng khá lắm, chỉ hiềm một nỗi phải tiếp xúc với lửa điện và hóa chất thường xuyên nên sức khỏe của anh ta mau chóng bị bào mòn…
Sơ Maria Magdalena – Đặng Thu Hiền ngồi im một góc mà đợi hai đứa con. Người ta vẫn không thích bà, vì bà vừa ngoại tình vừa có luôn đứa con với người yêu, lại thêm tiếng đồn bà rù quến Đức Cha Vinh Sơn – Cao Nhật Trung để được vô Dòng nên người ta còn ghét tợn.
– Huyền.
Là Mẹ Bề Trên Maria – Nguyễn Kim Hòa, đã từng, bây giờ cụ là một bà Sơ già sống với những đóa hoa Ơn Gọi của Dòng Chúa Cứu Thế.
Chỉ có duy nhất Má Hòa là gọi Sơ Hiền bằng cái tên cúng cơm: Huyền. Ngoài ra, chẳng còn ai nữa; ai cũng ái ngại cái tên gốc đầy dẫy đau thương cùng cực ấy.
– Cho Má ngồi chung được không Huyền?
– Dạ, con mời Má ngồi.
– Huyền có biết tại sao mà Âu-Tinh Dương được làm Cha Dòng không?
Sơ Hiền lắc đầu.
– Lúc đó Âu-Tinh Dương khóc nức nở, nó hứa sẽ uống thuốc đều đặn, miễn sao đừng đuổi nó đi mà. Rốt cuộc ông Biển-Đức Diệu phá lệ cho nó ở lại luôn, ổng biết ngoại trừ cái tật không kiểm soát được lời ăn tiếng nói và hành vi ra, nó hoàn toàn đủ tiêu chí để trở thành Linh mục Dòng. Song cũng vì chứng bịnh tăng động nhẹ, Âu-Tinh Dương không được đứng ra truyền giáo; các Thầy phân công cho nó đi dạy môn Vật-Lý và Hóa-Học, sau này nhận thêm phần dạy vĩ cầm cho bên Tiểu Chủng Viện.
“Thiên Chúa cho người ta cơ hội thứ hai. Chúng ta nói mình là con cái Ngài mà tại sao lại nỡ đi cướp lấy cơ hội của người khác.”
Ernest Nguyễn dẫn theo ba thằng bạn thiết. Kể từ ngày Đức Hoàng nổi tiếng, đi đâu hắn cũng phải bịt mặt và đeo kiếng, không phải vì sợ bị làm phiền mà là sợ nhóm hâm mộ “đôi trai tài – gái sắc” kia sẽ kiếm chuyện với mình; diễn viên chánh kiểu gì mà diễn dở kinh khủng, diễn riết bị hắn áp đảo và làm cho lu mờ hình tượng nhân vật của họ luôn.
Nguyên nhóm vừa mới an tọa ở cái bàn kê dưới tán cây bàng rậm lá, đã có vài người tới bắt chuyện với Đức Hoàng và ngỏ ý chụp hình, cũng như xin chữ ký của hắn. Biết cái cảnh đi đâu cũng bị quấy rầy thế này, hắn đã không nhận lời cha nội “Đức trọng, Quỷ – Thần kinh” kia rồi.
– Mơi mốt mày có nhận kịch bản nữa hôn Hoàng? – Khán Bình hỏi mà như đang chọc quê.
– “Lần đầu là lần cuối” rồi, con ạ.
Ernest Nguyễn khều khều mấy thằng bạn chí cốt:
– Coi hai cha kia ngồi ăn kìa?
– Mày muốn cuối năm cái mỏ mày con nguyên không con? – Tống Ngạn nhắc nhở.
Ernest Nguyễn vỗ đùi cái đét:
– Anh đó tên Cưỡng thì phải? Còn ông Trư Bát Giới kế bên là ai hổng biết.
Trong lúc ăn uống, Cha Thành phát bộ phim “The bells of St. Mary’s”, một bộ phim Công Giáo hết sức dễ thương và tràn ngập tiếng cười.
Maria Hòa tặc lưỡi:
– Ông Trung hồi còn sống hệt ông này vậy.
Augustino Dương nháy mắt hỏi Mẹ Bề Trên:
– Má có thương Cha không?
– Có.
– Hèn chi mà Má nổi cơn Tam Bành khi nghe phong thanh cô Hiền…
Maria Hòa thẹn quá hóa giận:
– Mồ tổ cha bây! Tao già rồi, còn nhắc lại chi nữa?
Lần đầu tiên mà Maria Hòa gặp gỡ Vincent Trung là vào một ngày Hè tháng sáu phượng nở thắm cành. Không bao giờ cụ quên được khoảnh khắc ấy, dưới vòm hoa phượng râm ran tiếng ve là một người thanh niên có khuôn mặt đẹp như tượng tạc, nước da trắng hơn bông bưởi và dẫu đang ngồi đọc Kinh Thánh trên môi vẫn treo lên một nụ cười tinh nghịch lạ kỳ. Ban đầu, cụ tưởng đây là một diễn viên mượn tu phục nhà Dòng để hoạt cảnh trong một cuốn phim nào đó, nên mạnh dạn bước tới và hỏi đủ điều. Chừng thấy người ta trình thẻ ra, cụ xẽn lẽn kiếm cớ đi trốn…
Longiuns Kiến vuốt cằm:
– Phải, cũng như bà Sơ và ông Cha trong phim này, đôi lúc hai bên có chút rung động với nhau, nhưng sau rốt đã chuyển từ Tình Yêu thành Tình Bạn và cùng nhau quên mình mà phụng vụ tha nhân hết lòng.
Joseph Thành kể:
– Thay vì để mấy đứa con nít hát bài chúc tụng Đức Jesus Kitô trong ngày Giáng Sinh như thông thường, đạo diễn lại cho tụi nó ca bài “Happy birthday to You, dear Jesus”.
Matthias Hoàn cười biểu:
– Tôi lại thích cái chi tiết này:
“Sơ dặn con nếu có ai đánh con bên trái thì mình nên đưa mặt bên phải, vậy là con quay mặt qua bên đó, ai mà ngờ nó dộng thêm một cú nữa. Con lại nhớ Sơ nói ai đánh mình cũng đừng bận tâm, vậy là con quay lưng bỏ đi, dè đâu nó đạp con một cái trời giáng.”
Augustino Dương phá lên cười:
– Cái này là bị “Ngộ Kinh-Thánh” nè.
Một ngày chộn rộn rồi cũng trôi qua. Khi màn đêm buông xuống là lúc tâm trí bị phủ sắc đen của bầu trời kia. Dù vui ngoài mặt, nhưng Giáo dân cũng có những canh-cánh nghi ngại nơi đáy lòng; đôi lúc vài người lén theo dõi Stephen Đoàn để rình coi anh có đi hẹn hò với ai nữa không, và lần nào họ cũng thấy anh đơn côi trên đường đời.
Stephen Đoàn đứng nơi sau hè của lưu xá mà thổi khẩu cầm bài “Ta vẫn yêu Người” của nhạc sĩ Hà Quang Minh, mà anh đã từng nghe qua màn hợp ca của Nguyên Khang – Don Hồ – Nguyên Khương và Nguyên Khang – Tiến Dũng – Bằng Kiều. Bài gốc tên là “Belle” của đôi tác giả Luc Plamondon và Riccardo Cocciante.
Augustino Dương nổi trận lôi đình:
– Trời ơi, tu được thì tu, hổng được thì đi ra! Bây làm như nhà Dòng là cái nơi cho bây diễn tuồng “Romeo và Juliet” vậy. Ai chia cách bây đâu? Yêu nhau quá thì về cưới con nhỏ đó luôn đi.
Stephen Đoàn bỏ đi một hơi.
Y-Nhã Cường gọi đến số máy của Thanh Liên thông qua ứng dụng Viber. Trong lúc ấy, Louis Quế, Henrico Thạnh và JB Khải ráng hết sức lôi Stephen Đoàn về.
Lần này, Thanh Liên bắt máy liền. Anh hỏi Stephen Đoàn:
– Đi chơi vui không?
– Vui.
– Bây giờ hai người xáp lại với nhau rồi thì vui được bao lâu?
Stephen Đoàn cười mép xẹo:
– Có lúc vui, có lúc hổng vui.
– Như hoa nở thắm cành, tình yêu thuở ban đầu cũng vậy; rất ít người đến được bước tiếp theo là thành cây đại thụ, hầu hết đều chết khô ở ngưỡng cửa hôn nhân. Tiền bạc tôi lo nên hai người mới thấy vui, chớ tới lúc “chim liền cánh – cây liền cành” là sẽ giống vợ chồng Louis – Huỳnh Quới và Maria – Nguyễn Xuân Bích liền.
– Khổ chết mẹ vui gì nổi mà vui. – Chị Sáu nói nhỏ rí mà ông Thầy Phó Tế vẫn nghe lọt được hết. Chú quạu quọ ngoảnh mặt ra ngoài sân mà ngó lung.
Thanh Liên bắt ấn, không ai rõ kết ấn đó ám chỉ điều chi, chỉ nghe anh nói rằng:
– Hai người cứ yêu nhau như vầy cũng tốt. Tôi còn nhớ chỉ vì thương Tôn giả Ananda mà Ma Đăng Già đã bỏ hết tất cả để được gia nhập Tăng đoàn, hòng lâu lâu hễ nhớ người trong mộng quá thì len lén chạy ra ngó một cái; rồi đến chừng một ngày, một “Thức – Niệm” ghé lại nơi Bà, Bà hốt nhiên đạt được đại ngộ mà buông bỏ mối tình vô vọng giữa mình và người trai Hoàng tộc ấy, không lâu sau Bà đã trở thành một vị A-La-Hán nữ xuất chúng.
“Buông hạ đồ đao, lập địa thành Phật.” “Đồ đao” ở đây là “Ái tình”.
– Yêu cái gì mà yêu? Chúa không cần một kẻ hai lòng như vậy. – Âu-Tinh Dương nói mà như la làng.
Thanh Liên mỉm miệng cười hỏi:
– Ông bỏ bà kia xuống chưa ông?
– Đứa nào kể cho nó biết? Hả?
Thanh Liên chắp tay mà bạch:
– Tôi tự biết. Bao nhiêu năm rồi ông vẫn không quên được người đó, ông đi tu một phần là vì ông tưởng người đó chết rồi, vậy hồi đó ông có “mấy lòng”?
Augustino Dương hất mặt:
– Chuyện đó với chuyện này không có giống nhau gì hết.
Thanh Liên chống cằm mà cười hỏi:
– Phải. Về mặt điều kiện nó không giống nhau, nhưng về mặt tính chất thì y chang.
Augustino Dương nhướng mày hỏi lại:
– Vậy cậu có yêu ai chưa?
– Chưa.
Augustino Dương nhếch miệng cười:
– Vậy tại sao cậu biết mà phán vậy?
– Ông nói chuyện ngang hông như Trang Tử và Huệ Tử tranh cãi “Sao biết cá vui” vậy.
– Cậu phải trả lời được…
Thanh Liên mỉm miệng cười, đoạn trình bày rằng:
– Tôi thông qua tình Mẫu – Tử nên biết. Tình Mẫu – Tử cũng giống như mọi thứ tình khác, luôn ở trong lòng ta và khó bị phai mờ. Nhưng tình Mẫu – Tử không đẩy người ta tới Ác Nghiệp, còn tình lứa đôi thì có, nên là để họ thư-thư quên lãng, chứ đừng đẩy họ vào khuôn sớm quá sẽ hỏng mất. Ông không muốn mình mất đi một Mục tử toàn tài đúng không?
Augustino Dương chỉ biết thở dài.
…
Stephen Đoàn trải ghế bố mà nằm giữa khu Đất Thánh. Lúc này trời đã nhuốm màu hoàng hôn, bốn bề thinh lặng như tờ, gió đã tản đi đâu mất nên bầu không khí oi bức khôn cùng, vầng dương dù sắp tàn hơi nhưng vẫn cố níu kéo ánh sáng đầy sự mệt mỏi cho nhân gian xô bồ. Y-Nhã Cường đã về trường để chấm bài thi, Louis Quế thì đã đưa vợ con và nhà ngoại đi Vũng Tàu chơi; quanh anh không còn ai nữa, chỉ còn một sự trống trải yên bình lạ kỳ, anh khỏi phải chịu đựng lời ca tiếng nhạc của Sáu Tửng, và cũng chẳng mệt mỏi với những câu nói buốt tai của Cha Chánh xứ. Mừng quá! Cưỡng cũng “Cuốn theo chiều gió” luôn rồi! Kể cả cố Peter Toàn cũng mê chơi cờ hơn là để mắt tới một tên Linh mục sắp đọa Hỏa Ngục như anh…
“Ta ngắt đi một cụm hoa Thạch Thảo
Em nhớ cho, mùa Thu đã chết rồi…”
Lúc còn là chủng sinh ngoan đạo của Dòng Chúa Cứu Thế, Stephen Đoàn mê say lời văn và diễn âm của nhà văn Nguyễn Đình Toàn, dù rằng không cảm nhận được sự tan vỡ và đọa đày ẩn sau những mối tình vô vọng mà cụ và các nhạc sĩ đã gởi gắm trong phần nội dung tác phẩm. Băng nhạc chủ đề mà cụ và các đồng nghiệp biên soạn là món quà mà anh đã tự thưởng cho mình trong sinh nhật cô độc của tuổi mười bảy, để rồi nơi vườn hoa sau lưng Tiểu Chủng Viện năm ấy chiều nào cũng có một đứa con trai xấu quắc ra ngồi luyện khẩu cầm muốn tụt cả lưỡi và sứt cả môi.
Tiếng hát của Thái Thanh và Anh Ngọc trong bài “Giáo đường im bóng” của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ và người bạn thi sĩ Phi Tâm Yến lại quẩn quanh nơi khối óc chàng Linh mục đau tình. Anh ngơ ngẩn đưa mắt nhìn cây Thánh Giá dựng trên nóc nhà thờ: Giữa mang-mang hoàng hôn rực rỡ, dường như vật Chứng Tá của Đức Jesus Christ đang tự tỏa hào quang chói lọi.
“Thánh Giá xa vời lắm, với chuông chiều ngân
Hồn thánh thót mưa dầm
Buồn tới âm thầm
Nơi Giáo đường im bóng, Tôi thầm mong ngóng
Đắm đuối trên làn sóng mắt Nàng huyền mơ…”
oOo
Kiều Xuân đã về Kiến Hòa. Nghỉ ngơi chưa được mấy ngày là cô đã lên lớp dạy trẻ. Bức tường người sơn còn đây mà dư hương của hình bóng cũ đã tan biến theo chiếc áo chùng thâm trói đời chàng trong vòng phụng vụ tha nhân và sùng kính Thiên Chúa. Từ ngày xa mối tình cuối, cô đã cài đặt bản nhạc chuông “Nỗi sầu” do Ngọc Lan trình bày, mà ca – nhạc sĩ Julie đặt lời từ tình khúc “It was Love” của đôi vợ chồng tác giả Frank Duval và Kalina Maloyer.
Út An là chàng Mục sư của Hội Thánh Tin Lành Lutheran. Bữa nay anh ghé đây để phát quà cho các em trong vườn trẻ, số quà này do một nhóm Cơ Đốc nhân bên ngoại quốc gửi cho, mỗi phần gồm có một hộp viết chì màu, mười cuốn tập, một bộ văn phòng phẩm, hai cây chocolate “Ritter Sport” của Đức, hai bịch chocolate “Hersey’s” và hai gói bánh “Hippea” bao bì vẽ hình Minion của Hoa Kỳ cùng hai hũ rau câu ống hút cỡ lớn hiệu “Twin Rabbit” (một vị trái cây và một vị sữa chua) của Đài Loan.
Đám trẻ mừng rơn đón lấy quà. Vì biết ông chú thích gọi anh nên ai cũng gọi Út An là “Anh Út”, bây giờ ngôi trường nhỏ bé rộn ràng những tiếng gọi đớt đát của bầy chim non đáng yêu nhưng cũng lì bà cố.
– Vắng cô, mấy người kia cực khổ lắm.
Kiều Xuân vừa vén tóc vừa gục gặc đầu cười mỉm. Rồi nói:
– Có ai muốn đi giữ trẻ với đồng lương rẻ mạt đâu anh, nên mỗi bận kiếm người trần ai lai khổ…
Út An bỗng hỏi trong lúc giúp một đứa trẻ cắt cây rau-câu:
– Cô có người yêu chưa?
Kiều Xuân trả lời mà như sắp khóc:
– Chỉ còn là dĩ vãng thôi anh.
– Tôi là Mục sư, nhưng tôi thích sống đời độc thân phụng vụ như bên Công Giáo. Có vợ có con không thể tận hiến trọn vẹn được.
– Vậy sao anh không theo bển mà theo bên đây?
– Tôi bất đồng Giáo lý với bên bển, và bất đồng cách sống với bên đây.
– Vậy thôi anh theo Chánh Thống đi.
– Tôi càng không thích Chánh Thống tợn.
Đứa nhỏ thấy lâu lắc quá nên kéo lai quần của anh Út mà lay lấy lay để:
– Xong chưa anh Út?
– Rồi, bây ham ăn quá. Hèn chi mập ú.
Đứa nhỏ xụ mặt, hai cánh tay của nó cũng buông thõng theo:
– Má con nói con nít mập ù mới thấy thương.
– Nè, ăn coi chừng mắc nghẹn đó ú.
– Dạ. Con cảm ơn anh Út.
Nhìn theo bóng lưng ục ịch của bé trai ấy, Kiều Xuân hỏi Út An:
– Anh ở đậu nhà ai?
– Của một tín hữu sống bằng nghề đóng đáy. Cách đây độ khoảng vài trăm mét.
Kiều Xuân dạy cho xấp nhỏ hát bài ca Thiếu Nhi “Yêu mùa Hè” của Yến Lan, tức bút hiệu của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng, mà cô đã từng nghe qua phần trình bày của Sơn Ca.
Sân trường nhỏ chẳng mấy chốc đã rộn vang tiếng hát trong trẻo của bầy chim non mới ra ràng được vài năm. Vài đứa vừa ăn vừa ca bị cô la nên hết hồn hết vía xém mắc nghẹn, những đôi mắt trẻ thơ dễ thương như mắt mèo đưa mắt nhìn cô giáo đầy hối lỗi.
Về phần JB Khải và Henrico Thạnh, hai chàng đã nhận lời dạy tiếng Anh cho mọi người. Lớp học ấy mang tên “Tình thương Mái lá”, lấy từ tên nhạc phẩm của tác giả Trúc Phương, đến giờ chỉ thấy có mỗi Thanh Tuyền là ca hay.
– Tôi là Mục sư Tin Lành – Hội Thánh Lutheran.
– Hai đứa tui là Cha Triều – Dòng Chúa Cứu Thế.
– Vậy Giáo xứ đâu?
– Chưa có tiền để xây nên Giáo xứ này mới có hai thành viên hà.
Bữa cơm thết đãi của hai chàng Linh mục trung niên có món canh rau mồng-tơi nấu tôm khô và riêu cua đồng, đậu đũa xào dầu hào, thịt kho tiêu quéo với tóp mỡ và tép mòng chấy dừa; đương nhiên không thể thiếu rổ rau sống với ớt hiểm hái ở sau hè.
– Ngon! Ngon số dzách luôn! – Út An bật ngón cái khen ngợi hết lời.
JB Khải hỏi:
– Anh ở đâu?
Út An trả lời y chang như khi nói với Kiều Xuân.
Henrico Thạnh vừa bới thêm cơm cho mình và ông Cha Sở vừa mở lời:
– Dzậy lại đây ở đi. Nhà này rộng lắm, có thêm người đi vô – đi ra cho xôm tụ mà bớt buồn.
Vốn không quen với giờ giấc thất thường của chủ nhà đang cho mình ở đậu nên Út An gật đầu đồng ý ngay tắp lự.
Do nhà tranh vách đất nên muốn cơi nới rất dễ dàng, thành thử Henrico Thạnh đã cất thêm ba phòng ngủ nữa để có chỗ cho các Thầy và anh em đồng Đạo nghỉ ngơi khi ghé lại đây chơi. Út An chọn căn phòng có cửa sổ trông ra mé mương xanh ngắt bóng dừa và những bụi cây thâm thấp khác; anh vừa dọn buồng vừa nói chuyện với Bảy Khanh, chốc nữa anh Bảy của anh sẽ lại ở nên anh phải sắp xếp sao cho chu đáo nhứt có thể.
– Út, ở ngoải có người tự xưng là “Bảy Khanh”.
– Dương Thoại Khanh phải không?
– Trời đất ơi! Tên đàn ông – đàng ang gì kỳ cục vậy? – JB Khải thảng thốt hỏi.
– Mẹ ảnh mê tuồng “Thoại Khanh – Châu Tuấn” nên ban cho ảnh cái tên trên.
– Mà quên nữa, anh tên gì?
– Chung Dĩ An: “Dĩ Quốc – An Bang”.
– Tuồng này tuồng nào nữa?
– Hổng biết.
Chàng Thoại Khanh khệ nệ kéo hành lý vô “Một túp lều tranh, hai trái Tim vàng” của hai ông Cha đã trung niên. Sau lưng ông Thầy là một ông Thầy khác, Út An vừa quải ba-lô và xách mấy bịch đồ giùm anh Bảy vừa kêu ca om sòm.
Henrico Thạnh đã xuống bếp hâm cơm từ nãy giờ. Hồi nãy nêm canh vừa ăn nên giờ hâm lại phải chế thêm một chén rưỡi nước đặng ngừa nước canh bị sắc xuống mà sanh mặn.
– Vô tắm cái đi rồi ra ăn cơm.
Bảy Khanh gật đầu và nói lời cảm ơn.
– Ờ, đồ dơ thì bỏ vô máy giặt đại đi. Mơi tui giặt rồi phơi cho.
Vì trời nóng bức kinh khủng nên Bảy Khanh tắm nước lạnh luôn. Nước này là nước mưa đã qua giai đoạn tinh lọc nên sạch và mát lắm. Ngũ vị tạp trần dường như được gột rửa hết sau mỗi gáo nước. Đến chừng cạn cái chum, chàng Mục sư mới chịu lau mình lau mẩy rồi bận đồ vô và rời khỏi nhà tắm.
Trước lúc bưng chén lên ăn, Bảy Khanh đọc Kinh và làm dấu Thánh. Anh vẫn chưa hay biết hai người chủ nhà là Cha xứ, lại tưởng lầm là Cơ Đốc nhân bên mình, thành thử định lên tiếng hỏi về vụ trang hoàng bàn thờ Chúa.
– Hai anh này là Linh mục Triều đó, anh Bảy.
– Ủa vậy hả? Hèn chi…
JB Khải hỏi sẵng:
– Hèn chi gì?
Bảy Khanh có sao nói vậy:
– Thấy cái bàn thờ hơi ngộ.
Henrico Thạnh cười cầu hòa:
– Thì… hai bên khác cách phụng vụ mà. Thôi, ăn cơm đi, Bảy.
Út An vẫn thản nhiên ăn chuối sứ nấu với đường mía.
– Anh Năm kể cái người bữa hổm ảnh với anh Hữu cứu là cảnh sát chìm. Anh ta bị thủ tiêu tưởng đâu chết rồi. Nghe nói đã bị moi một ít gan.
– Gì ghê dữ vậy?
– Ờ, thành ra đi làm thiện nguyện cẩn thận chút. Ai đưa cái gì cũng nên thử trước rồi hẵng đưa vô bụng.
Tuy nghe câu được câu mất nhưng JB Khải vẫn nắm được đại ý của cuộc hội thoại giữa hai người Mục sư. Hốt nhiên anh lại muốn đi ói vì nhớ lại hiện trường vụ án mà hôm bữa mình bị bắt gặp…
Tấn mùng xong xuôi, Bảy Khanh giảm nhiệt độ của cái máy lạnh xuống vài số. Nhà tranh vách đất mà gắn máy lạnh, đây là lần đầu tiên anh được ở qua.
Anh Hai Nghĩa và anh Ba Đức là cảnh sát chìm, được cài vào Hội Thánh để bảo vệ thân nhân của người bị hại là Mười Anh. Có lẽ thân phận đã bị bại lộ nên chị Hai Tâm mới bị xô vô thùng nước lèo khi đi mua đồ ăn, thật may vì Andrew Hồ đã kịp thời ghịch lại nên chỉ bị phỏng trên mu bàn tay phải (do lúc ấy hoảng quá chị đã quẹt tay trúng phần thành của cái thùng đương sôi ùng ục). Bây giờ cứ hễ đến giờ vào học hay tan trường là lại có cảnh sát mặt thường phục đi vòng quanh khu vực để bảo đảm an toàn cho bé Hải; đám mổ cướp nội tạng này rất chuộng những đứa trẻ khỏe mạnh như nó, chúng thường đem bán lại cho giới phú thương có con cái mắc bịnh hiểm nghèo với giá cắt cổ, và thường là bán tươi chứ ít khi nào là bán đông lạnh nhằm nâng giá tiền lên cao hơn nên đương nhiên cái chết của nạn nhân cũng khủng khiếp hơn.
– Mơi làm gì đãi hai ông thần kia đây? – Henrico Thạnh vừa hỏi vừa tắt đèn cầy trên bàn thờ Chúa. Hai người vừa xong buổi Kinh Tối.
– Nấu canh chua, chiên xù cá trê, trộn gỏi và kho mặn món chi đó.
Cũng trong tối đó, Kiều Xuân đang rế chả giò để sáng mai mọi người ăn chung với món bún thập cẩm.
Rế đâu được gần trăm cuốn, điện thoại của cô giáo trẻ bỗng rung chuông. Cô trả lời trong sự bực dọc:
– Có chuyện gì mà gọi lúc nửa đêm vậy anh Cảnh?
– Cái người mà cô gặp trên tàu lần trước có nói gì lạ không?
– Ảnh nói ảnh đang theo dõi Yên Hồng.
– Yên Hồng? Là đứa nhỏ bị bề hội đồng dẫn đến có bầu hả?
– Không chắc là con riêng hay con chung nữa, chỉ e nó là vợ lẽ thứ mấy ngàn của thằng nào trong đường dây mổ cướp nội tạng nữa.
– Lần trước Judas và Mục sư Anh phát hiện nó ở trên sân thượng của tòa nhà Vạn Phát, trong tình trạng khỏa thân và đã bị xâm hại, nhưng nó có bầu trước đó đã mấy ngày rồi.
– Vậy mà nó không bị sẩy thai?
– Cho nên bây giờ cổ tử cung của nó rất yếu. Có lẽ nội trong tháng sau hoặc chịu được thì thêm tháng sau nữa nó sẽ lên bàn mổ bắt con.
– Có thể là nó bị ghệ của ai đó trả thù…
– À há! Đúng là chỉ có phụ nữ mới hiểu lẫn nhau mà thôi.
– Sáng mai rảnh không? Hay là phải trực ở nhà xác?
– Quởn. Sao?
– Xuống đây theo tôi với mấy Cha – Thầy đi làm thiện nguyện, sẵn nói chuyện riêng dễ hơn, gọi qua điện thoại dễ bị theo dõi lắm.
Vậy là y hẹn, lối tám giờ sáng, Kiều Xuân ra Bắc Rạch Miễu đón Mạc-Ty-Nho Cảnh. Cô bận áo cotton in hình ếch Keroppi và quần jeans xanh than, đầu đội nón bảo hộ xanh biển, còn chân đi giày “Skechers” không dây màu hồng phấn có đế cao.
Nghe tiếng còi phà reo vang, Kiều Xuân liền đứng dậy ngóng.
Mất khoảng gần hai chục phút nữa, pháp y Cảnh mới rời bến mà chạy vô chợ Tân Thạch để kiếm quán cà-phê mà Kiều Xuân đang ngồi đợi.
Do không rành đường nên Martin Cảnh đành dắt bộ đi kiếm. Con lộ nhỏ xíu, bề ngang không được năm thước, hễ có xe hàng chạy vô là coi như giao thông bế tắc. Hai bên đường, bà con bày bán rất nhiều mặt hàng, nhưng đa phần là nguyên liệu cho bữa cơm hằng ngày hay đồ gia dụng cần thiết, chứ không có bán mấy món xa xỉ và ít ai dám rớ tới. Ngửi thấy mùi sầu riêng thơm quá, chàng pháp y đơn côi bèn ghé sạp mà mua một trái; người bán là một bà thím trạc tuổi má anh, nghe thím kể thì thím đã bán ở đây từ lúc thím còn xuân xanh cho đến lúc hương sắc phai tàn, vậy mà trong mình vẫn không dư được bao nhiêu, ăn bữa nay – lo bữa mai, đời sống nhọc nhằn trăm bề. Nghe thím than vậy, anh tội nghiệp mua giùm thêm một trái, để rồi được nghe tràng cười giòn hơn tiếng pháo ngày Tết của người đáng tuổi mẹ mình mà lại cực khổ hơn mẹ mình bội phần.
– Rồi, muốn thím xẻ sao? Hay là để thím gỡ ra hết giùm cưng?
– Dạ, xẻ ra cho dễ tách thôi thím. Có gì về nhà con tự gỡ.
– Rồi, OK luôn.
Tiếng OK của thím đã làm chàng pháp y đồng hương với công tử Bạc Liêu bật cười đã đời.
– Vậy con gởi tiền trước nghen? Tại con phải ghé đón cô bạn, để cổ chờ lâu tội nghiệp người ta lắm.
Vừa kiểm lại xấp tiền, bà thím vừa cười giỡn:
– Ờ, nhớ quành lại lấy nha? Hổng lấy là tui mừng lắm đó.
Kiều Xuân chưa kịp gọi điện hỏi pháp y Cảnh có đi luôn xuống dưới đình Tân Thạch không mà sao giờ này hổng thấy mặt mũi đâu hết, đã nghe tiếng máy xe của chàng ta nổ cà-tạch – cà-tạch; không phải cô có Thuận Phong Nhĩ, mà bởi vì cái tánh ẩu tả của mình mà chàng ta đã khiến con chiến mã kim loại bị trục trặc động cơ rồi ho sù sụ mỗi bận hoạt động, thành thử cô mới nhớ rõ dữ vậy.
– Ê, sầu riêng!
– Dạ, cảm ơn thím, con quên.
– Trời ơi, chưa già mà còn lẫn hơn tui! Có nhỏ bạn đẹp gái quá há cưng? Mà bạn thiệt hôn đó?
– Thiệt. Con xấu trai vầy ai mà thèm ưng.
Bà thím trề môi:
– Mặt vầy mà nói xấu, chắc con thím thành hoàng tử quá. Thôi, hổng ghẹo hai đứa nữa, sầu riêng của cưng nè.
Rời khỏi ngôi chợ đã có tuổi đời hơn cả Bắc Rạch Miễu, Kiều Xuân mời Cảnh Chiêu xuống đình Tân Thạch viếng Ông Thành Hoàng. Anh gật đầu đồng ý ngay tắp lự, rồi tính sẽ gởi biếu cho ông từ một trái sầu riêng ăn lấy thảo.
Ngôi đình nằm đìu hiu giữa bốn bề nhà dân mọc san sát nhau. Cũng may những kỷ vật của Ông Thành Hoàng còn lưu lại được, để đời sau còn có cái mà chiêm bái; dòm tới đâu cũng thấy bùi ngùi và xao xuyến lạ, như thể cả một nhánh rất nhỏ của lịch sử đang tái hiện trước mặt Martin Cảnh. Trước lúc đi kiếm ông từ, anh kỉnh Ông Thành Hoàng ba nén nhang thơm và gởi chút tiền lạc quyên.
– Cô có biết quán nào ngon không? Đi gấp quá nên không kịp ăn cái gì.
– Nhốc. Qua chợ Ngã Năm muốn ăn gì cũng có. Ăn xong ra công viên gần đó ngồi nói chuyện luôn cho kín đáo.
Thể theo lời khuyên của cô bạn Kiến Hòa, Cảnh Chiêu ghé quán cơm tấm lề đường nằm đối diện với bờ sông Ba Lai. Dù là tiệm ăn vỉa hè nhưng nơi đây rất sạch sẽ, không gây cảm giác bất an nhưng nhiều chỗ khác.
Cũng như phần đông dân bán buôn miền Tây, vợ chồng chủ quán hết sức xởi lởi và dễ gần; hết chồng đến vợ kẻ tung – người hứng với thực khách làm chốn nhỏ luôn rộn vang tiếng cười và những câu chuyện đong đầy hình ảnh những vùng đất mới mẻ mà đôi vợ chồng Quận Trúc Giang đã hoặc chưa từng đặt chân qua.
Dĩa cơm có cơm nhiều hơn thịt, đồ bổi ăn kèm gồm có một miếng sườn mỏng hơn tờ giấy quyến nhưng thơm nức mũi, một miếng chả hột vịt bằng phân nửa cái điện thoại di động, một nhúm bì ram chỉ nhỉnh hơn chút xíu nắm tay em bé và hai cái trứng cút ốp-la giòn rụm; đương nhiên không thể thiếu dưa leo, cà chua, mỡ hành, đồ chua và chén nước mắm ớt kẹo kẹo màu mật – ai muốn ăn ớt hiểm thì cứ tự nhiên lấy, ở đây không tính tiền và muốn ăn bao nhiêu cũng được.
Trước khi ăn, Martin Cảnh làm dấu Thánh và lầm rầm một câu Kinh “xin phép”. Trong lúc ấy, Kiều Xuân cũng niệm vài câu chúc tụng “Hồng Ân Tam Bảo”, cô đã chính thức trở thành Ưu-Bà-Di, cũng tức là cư sĩ nữ phải giữ giới theo Tạng Luật.
Xong xuôi hết thảy, hai người mới gọi đồ uống ở hàng nước nằm cặp mé phải tiệm ăn: Martin Cảnh kêu cà-phê đen đá, còn Kiều Xuân uống cam vắt ít ngọt.
Nghe đâu được vài câu trong tình khúc “Nghẹn ngào” của nhạc sĩ Lam Phương qua phần song ca của Túy Hồng và Phương Đại, Kiều Xuân mới bặm môi hỏi:
– Con nhỏ kia vẫn chưa chịu khai ra sao?
Martin Cảnh vừa rưới sơ nước mắm lên phần cơm vừa lắc đầu cười khổ:
– Nó nói đợi con nó ăn Thôi Nôi cái đã.
Kiều Xuân thở dài thườn thượt:
– Đợi tới chừng đó thì biết bao nhiêu người nữa.
– Cô và Cha Mỹ sao rồi?
– “Tình xưa xa rồi.”
Martin Cảnh nhếch miệng cười:
– Chưa có Giáo xứ nào mà “đại đoàn kết” được một phần St. Padre Pio Sài-Gòn. Hễ ông nào về quản xứ mà làm bậy là đoàn Chiên trục xuất liền, khỏi có cậy danh Cha chi sất.
– Ừ, ở đó được “sắc phong” là “ấp chiến lược” và “khu tự trị”… Tôi nói có gì bậy sao mà anh lại cười?
– Tôi nhớ ở trển có một câu nói bất hủ, “Ở trên không trị được Cha hư thì ở đây tụi tôi trị giùm cho.”
– Vậy mà không ai dám rớ tới anh Cường.
Martin Cảnh gục gặc đầu:
– Không ai dám hó hé tới Cha Cường hết. Đúng là “Cao nhân tất hữu Cao nhân trị”.
– Không, “Ác nhân tất có Ác nhân kỵ”.
Martin Cảnh che miệng cười để tránh văng thức ăn ra ngoài:
– Này ném về “Nhân Sư” chớ hổng phải “Ác Nhân” đâu cô.
Trong vườn nhà đôi Linh mục trung niên vang vọng những bản nhạc trước năm 75. Thanh Tuyền đang hát bài “Về thăm quê Em” của nhạc sĩ Phan Thế, đây một trong những nhạc sĩ mà rất ít người biết đến.
Henrico Thạnh đang đắp lại đất cho vồng khoai bị chó bươi làm nơi giấu xương. Anh vắng nhà mới non nửa tháng mà vườn tược muốn thành rừng nguyên sinh. Cũng không thể trách chú – thím Năm được, mưa dầm mưa dề, đi qua đã khó chứ đừng nói chi là sửa soạn vườn tược.
JB Khải cũng không rảnh tay. Anh cắp cái rổ mà đi lượm trứng, vì gia cầm nhiều quá nên rắn cũng kéo về làm bầy, cứ hễ khum xuống lụm một hột là mắt phải ngó láo liên như đi ăn trộm do sợ rắn mổ vô tay. Mới đi được có trăm mét mà cái xe cút-kít lót rơm dày mấy tấc của anh đã đầy nhóc. Có nhiều lúc anh bắt gặp những con gà mái hay con vịt bầu đang nằm ổ, dáng điệu nằm phề ra của chúng làm anh cảm thấy vui vui; và cứ hễ thấy con nào, anh đều thay nước và cho một nắm thóc. Anh sẽ đi hết bờ đất này rồi vòng về, chứ cuộc đất này rộng những hai mẫu đất, làm gì cũng phải biết lượng sức chớ.
Vòng lại bờ đất mà Phước Thạnh đang đắp vồng khoai, Tấn Khải thấy thằng bạn đã đắp xong; giờ đang giăm lại những mầm khoai mới. Tiếng hát của song ca Minh Vương – Hương Lan trong bài “Cây Khế sau hè” của Phạm Vũ Anh Tứ, đây là bút hiệu của nhạc sĩ Đài Phương Trang, vang lên giữa bốn bề cây trái xanh mởn nghe sao thiệt buồn.
– Mưa này có nấm mối nấu canh rồi nè Khải. Chiên với bánh xèo ăn cũng bắt nữa. Nhưng mà phải canh cho kỹ, không là Thời Thiên tới lấy giùm hết ráo.
Nhựt đã về đây sống cùng với hai ông Cha để tránh khỏi sự truy bắt của anh Hai – Quận Tư. Hai Lúa và Út Mén vẫn ở lại thành đô, và người cưu mang tụi nó là mợ Hai.
– Khỏe rồi hả ông Tư? – Henrico Thạnh cười hỏi.
Cô con dâu trả lời thay:
– Ông Tư mổ não thành công rồi. Giờ chỉ cần tập vật lý trị liệu đôi chút là “tráng niên” như ngày xưa thôi.
Nhựt giúp hai ông Tía bưng món cháo trắng ăn với ếch kho tóp mỡ và tiêu sọ qua nhà ông Tư đột quỵ. Nó xách cà-mên ếch, Tía Khải xách cà-mên cháo và Tía Thạnh xách mấy bịch trái cây hái ở vườn tược xóm Đạo.
Dù nói còn hụt hơi nhưng ông Tư vẫn ráng gằn giọng cảm ơn mấy đứa nhỏ. Rồi gắng sức ra hiệu cho con dâu dẫn tụi nó đem đồ xuống nhà sau cất.
– Mốt con sẽ tặng ông cái mo cau, đặng làm Gia Cát Lượng, phẩy phẩy vài cái là có lính liền…
– Mồ… tổ… cha… bây… – Ông Tư vừa cười vừa đập nhẹ vô cánh tay của thằng Út Thạnh.
JB Khải được bà thím mời ăn mứt dừa nên dù không hảo ngọt cũng ráng ăn vị bụng vài miếng.
– Thấy… bây… hổng… có… cưới… vợ… mà… lại… rước… thằng… này… dìa… ở… Tao… tưởng… đâu… “Thôi… rồi… Lượm… ơi”… chớ…
– Con mà có dzậy con cũng kiếm đứa khác, kiếm thằng giống vậy… ói chết.
JB Khải lừ mắt ngó thằng bạn mà như thể muốn ăn tươi nuốt sống nó.
Henrico Thạnh lại bẹo:
– Con thấy ông dư sức kiếm thêm bà nữa chớ chả đùa.
Ông Tư giựt thót.
– Mày… muốn… tao… ra… đường… ở… lắm… hả… mày?
Hai chàng Linh mục giúp ông Tư sợ vợ dùng bữa. Thím dâu được rảnh tay nên ngồi làm một tô cho có sức đặng xíu nữa ra chợ bán quần áo với vợ chồng thằng con; thời buổi giờ kiếm đồng tiền khó khăn vô cùng, cũng bởi công nhơn thất nghiệp tràn lan nên sức mua giảm đi rất nhiều, có nhiều bộ gia-đình bày bán từ hồi đầu năm ngoái mà tới giờ vẫn chưa ai ngó đến hỏi.
Trên đường về Giáo xứ, Henrico Thạnh than rằng chiều nay phải tới ký nhi viện tổ chức sanh nhựt cho xấp nhỏ mà giờ này không thấy cô Xuân và hai anh Tin Lành đâu.
– Út An thì đi xây cầu, còn Bảy Khanh thì đi sửa nhà cho hai bà cháu sống gần cầu Hàm Luông rồi.
– Rồi rốt cuộc xuống đây truyền Giáo hay đi làm “thợ đụng” vậy?
JB Khải nhún vai:
– Có thể là cả hai.
Henrico Thạnh day qua hỏi thằng Nhựt:
– Muốn ăn đồ ăn liền kiểu Mỹ hôn?
Thằng Nhựt cười tươi tới độ hai mắt híp hịp.
– Mơi hén?
– Tía…
Henrico Thạnh vỗ đầu nó:
– Giỡn với bây có chút xíu mà cái mặt đã chằm dằm rồi.
Kiều Xuân và Martin Cảnh vừa về Giáo xứ thì hai chàng Linh mục đã đưa Nhựt đi ăn trưa.
– Mấy cha nội này thiệt tình… Thôi, tôi còn phải xuống bếp làm bánh kem để chiều nay bày tiệc thết đãi xấp nhỏ.
– Cần tôi giúp gì không?
Kiều Xuân nhếch môi cười:
– Không cần đâu. Lên bộ ngựa nằm ngủ một giấc cho khỏe đi. À, lát nữa con bồ tôi qua phụ, nó hổng có liên quan gì đâu nên làm ơn đừng hỏi nó nhe?
Martin Cảnh phì cười mà gật đầu nhận lời.
Trước lúc xuống nhà sau, Martin Cảnh lại trước bàn thờ Chúa mà quỳ xuống chắp tay thưa một tiếng. Anh còn kính cẩn dâng hoa lên bàn thờ và thắp các ly nến nữa. Chứng kiến cảnh ấy, Kiều Xuân lại nhớ về “Người bạn Tình xưa”, rồi day mặt xuống nhà sau mà nâng tay áo lên chậm nước mắt; “Vì Anh là Linh mục, nên suốt đời phải mặc áo Dòng…”
Nhà sau rất rộng rãi và thoáng đãng, nhưng vẫn ám mùi khói bếp. Cái mùi khói bếp như ám vào từng viên gạch nhỏ, cái mùi chợt nhớ chợt thương đó làm Martin Cảnh nhớ đến chái bếp quê nội, kể từ ngày làm trong nhà xác, năm thì mười họa anh mới có dịp về đó mà ở chơi vài ngày, chưa kịp hồi tưởng hết kỷ niệm ấu thơ thì đã phải trở lại thành đô rồi. Khi hay tin anh làm Pháp y, người thân của anh hết sức thất vọng, bởi lẽ họ đều mong anh trở thành bác sĩ gia đình hay Phẫu thuật để vừa sống gần nhà vừa mau làm giàu hơn…
– Ước mơ hồi nhỏ của cô là gì vậy Xuân?
– Làm điệp viên. Do mê mấy bộ phim về đề tài đả nữ của xứ Cảng Thơm.
– Hèn chi mà giờ cô nhập vai giỏi quá. Ngay cả tôi tôi cũng không biết là cô khùng thiệt hay điên giả nữa.
– Tôi thấy câu nhận xét của anh nên dành cho thi sĩ Bùi Giáng thì hơn.
Món bánh mà hai cô bạn làm là bánh chocolate ba loại: Dừa nạo, Chuối xiêm và Phô-mai; ngoài ra còn có Cupcake bạc hà, Crepe nhưn sầu riêng và bánh hột gà. Martin Cảnh nhận phần chụm củi và canh lửa.
Chừng mẻ Cupcake vừa chín tới thì hai chàng Linh mục và đứa nhỏ Tân Tòng cũng vừa về đến.
– Oa, thơm quá chị Xuân, chị Trân!
– Anh là… bạn của Mỹ hả? – JB Khải nhíu mày dò xét.
– Dạ phải. Tôi là Kitô hữu dưới Bạc Liêu, thuộc Giáo xứ Bá-Đa-Lộc, nhờ một lần tình cờ mà làm thân với Cha Stephen – Đoàn Ngọc Mỹ.
Henrico Thạnh vừa máng cái nón bảo hộ lên vách tường vừa ân cần hỏi:
– Buồn ngủ hay gì mà mắt đỏ quạch vậy anh?
– Dạ phải, tôi đi xuyên đêm nên bị mất ngủ.
– Vậy vô buồng nằm đi. Có gắn máy lạnh nên mát dữ lắm. Để tui dẫn đường cho.
Tắm rửa xong xuôi, Martin Cảnh mới chịu đi ngủ. Căn phòng mà người Linh mục trạc tuổi chọn cho anh có cửa sổ trông ra vồng khoai dá* – Giống khoai này dễ làm phái nam á khẩu khi đi mua lắm; hồi còn tuổi mực tím, loại khoai này thường là món quà sáng của anh để có sức mà còng lưng đạp xe đi học, lâu lâu có tiền mới được ăn bánh mì hay gói xôi, còn trúng mánh đậm mới được ăn hủ tíu, bánh canh,…
– Thầy Liên đài thọ hết hả cô Xuân? – JB Khải hỏi trong lúc cời than để bớt lửa.
– Phải.
– Tôi không tài nào hiểu nổi tâm tánh cha nội này…
– Thầy thấy đúng thì Thầy làm thôi; Thầy không cần ai thương, cũng chẳng cần ai hiểu hay sợ người ta không tin và nghi kỵ mình.
– Vậy mà ổng không phải là A-La-Hán?
– Muốn chứng đắc được quả vị ấy buộc phải đoạn trừ hết mọi lậu hoặc và Nhân dẫn đến Quả tái sanh. Thầy biết mình còn nợ đời nên không thể bước lên Niết-Bàn được đâu.
Henrico Thạnh lo bên lớp Giáo lý Tân Tòng, còn JB Khải thì phụ trách lớp Giáo lý Hôn Nhân, riêng lớp phổ cập Anh ngữ thì do hai chàng Mục sư đảm nhiệm. Dưới nhà sau, hai nàng Kiến Hòa đang xếp bánh vô hộp rồi đem cất trong tủ lạnh; hy vọng các em và quý bà con ở đó không chê.
Longiuns Kiến xuống chơi một cách bất thình lình. Sắp về hưu rồi nên xấp trẻ và lớp già ít giao việc trường cho ông, cũng như để ông được thoải mái giờ giấc.
– Hai cậu đây…
Bảy Khanh hướt mà đáp:
– Thưa ông, tụi tôi là Mục sư Tin Lành thuộc Hội Thánh Tin Lành Lutheran; nếu ông cần kiếm Linh mục thuộc Dòng Chúa Cứu Thế thì xin mời bước qua bờ đất kia – Họ đang dạy Giáo lý trong trỏng đó.
Longiuns Kiến làm dấu Thánh và nói lời cảm ơn hai cậu Mục sư, rồi khoan thai chắp tay sau lưng mà đi qua bờ đất đó.
Đứng bên bờ này ngắm qua bờ kia thì thấy bên bển có ba lớp học, hiện có hai lớp có tiết, lớp nào cũng được dựng từ vách đất và mái tranh nên mát dữ thần, bề ngang mỗi lớp độ chừng chục mét và chiều cao khoảng đâu ba mét mấy, hai bên hông dãy phòng đều có hàng ba để sẵn băng ghế cây và sàn nước cỡ nhỏ. Nếu không có dàn ống dẫn thủy bằng nhựa, vòi xịt nước tưới cây và vòi nước inox, dám chừng Longiuns Kiến đã tưởng mình đang lạc vào thời của cụ Hồ Biểu Chánh rồi chớ. Mang theo tâm trạng hoài cổ, ông Cha Dòng hăm hở bước lên cây cầu dừa có tuổi đời chắc cũng xấp xỉ với ông; vì nhiều người không dám đi cây cầu dừa nên hai thằng con của ông phải đóng cây cầu lót ván có lan-can, vị trí của cây cầu có tay vịn ấy nằm cách cây cầu dừa hơn trăm mét, chạy nhằm về phía Đông – Đông Nam, tức là xéo với hàng ba bên hông trái dãy phòng. Đi đâu được nửa đường, đôi chân già của ông hết giữ thăng bằng nổi, nên ông đành phải lớn tiếng kêu hai thằng con ra hộ giá.
– Trời ơi, có cầu kia hổng đi, đi cây này chi chời!
– Tao muốn sống lại “Tuổi ngọc” chút xíu cũng hổng được hả mày?
– Thầy lên tới tuổi hạc rồi… – JB Khải cười khổ nhắc nhở.
– Chút xíu nữa là ổng ca bản “Còn tuổi nào cho Em” rồi.
Longiuns Kiến ngẫu hứng cất giọng:
– “Tuổi nào như lá vàng úa chiều nay…”
– Thôi, thôi, thôi, Thầy hát một hồi là “Chiều tưởng nhớ” luôn đó.
– Sao tưởng nhớ?
– Đứt hơi… ngoẹo.
– Đúng là chưởng môn nào thì đồ đệ đó. Tao tưởng mày con riêng của thằng Dương không hà.
Kiều Xuân và Quế Trân bưng thùng chuối chưng lên đãi học viên của ba lớp; cô Út Hương ôm thùng đá bào, còn cô Tư Lành ôm thùng chuối chưng, thằng Nhựt quải bao nylon đựng ly giấy và muỗng nhựa.
– Nhỏ ghệ của thằng Mỹ sao có mặt ở đây?
Henrico Thạnh bật cười:
– Cổ sống gần đây mà Thầy. Để mơi con dẫn Thầy lại nhà cổ ăn điểm tâm sáng.
JB Khải gãi đầu:
– Thầy mà nói “ghệ”, lỡ đâu Cha Dương nghe được Cha quạu nữa là tanh banh luôn á.
Công nhận hai con nhỏ xứ này nấu chè ngon thiệt! Ly này có kiếm đỏ mắt ở thành đô cũng không thấy, vì ham lời nhiều nên người bán quậy bột báng gấp ba lần chuối xắt và khoai môn, nước cốt dừa áo qua một lớp rồi thôi – muốn béo thì phải mua thêm, còn đậu phộng thì để sơ sài còn hơn tráng nhựa đường thủ công. Ở dưới quê nguyên liệu có sẵn, lại tự tay chế biến, nên phần nào phần nấy vun chùn, ăn một ly là đã thỏa cơn thèm rồi.
– Chè thưng khác với chuối chưng hả hai cô?
Quế Trân lanh miệng đáp:
– Dạ, khác có xíu xiu hà. Chè thưng nấu với khoai lang, còn chuối chưng nấu với khoai môn. Chè thưng có thể bỏ thêm vài thứ theo ý thích, còn chuối chưng thì chỉ có bấy nhiêu nguyên liệu thôi.
– Vậy chè bà ba có phải là chè thưng không cô?
– Dạ hông. Chè bà ba bắt buộc phải bỏ gừng và nấm mèo. Đặc biệt, trong chè bà ba phải có bột năng vò lại thành sợi mà đem đi nấu chín; nếu muốn bắt mắt hơn, có thể nhuộm màu bằng nước cốt lá dứa, lá cẩm, đậu biếc hay trái gấc hoặc bất cứ loại trái cây – rau cải nào mà mình ưa thích. Ngoài ra, trong chè còn có khoai mì với khoai lang xắt miếng vuông vừa ăn và nước đường như món tàu hũ nóng. Và, chè bà ba không ăn kèm với nước cốt dừa, vì nó đã có nước đường rồi; ngày nay người ta biến tấu vô chứ thời xưa hổng có ăn như vậy. Bây giờ nhiều người bị lộn hai món này thành một lắm.
– Vậy sao nó có tên là “Chè bà ba”?
– Vì nó đơn giản như chiếc áo bà ba vậy. Và cũng vì nó là món ăn chơi dân dã, không cầu kỳ.
– Vậy chè bảy màu còn khác dữ nữa?
– Cũng sai khác có chút xíu hà chú. Chè bảy màu hổng có bỏ chuối và ít ai nấu chung với khoai và đậu xanh.
Henrico Thạnh góp lời:
– Người Nam Kỳ xứ miền Tây sáng tạo đủ thứ loại chè, hổng phải dân ở đây khó bề mà phân biệt và hiểu cho rõ lắm.
Longiuns Kiến hỏi nữa:
– Nhưng thường thì món nào cũng ăn kèm với nước cốt dừa?
Quế Trân gật đầu với nụ cười tươi trên môi:
– Dạ, vậy nó mới béo, chú.
Henrico Thạnh pha lửng:
– Ăn nước cốt dừa sống là… té re luôn đó.
Longiuns Kiến hỏi:
– Nấu sao cô?
– Thường thì nấu nước cốt dừa với đường cát, một chút xíu muối, thêm miếng nước; quậy trên lửa riu riu một chút là được hà. Ai thích bỏ hành thì xắt để vô, mà phải bỏ hành sau chót chớ bỏ ngay bước đầu ăn nó kỳ dữ lắm.
Rồi nàng tóc ngắn tâm tình:
– Thiệt tình dòm mấy bài viết dạy nấu ăn hay giới thiệu ẩm thực trật-lất ngứa con-mắt con lắm, chú.
– Canh bún miền Nam là sao cô?
– Canh bún miền Nam là vầy nè, nguyên liệu gồm có: Bún, thịt bằm, tôm khô, trái nấu chung là bầu, mướp hương hoặc bí – Ai muốn trái nào thì bỏ trái đó vô. Sơ chế sạch sẽ thì bỏ vô nồi nấu và nêm nếm gia vị, xong rồi đó.
– À, còn canh bún miền Bắc nấu giông giống bún riêu.
Henrico Thạnh mở bài “Lời cô giáo trẻ” của nhạc sĩ Vinh Sử, trong bài này ông đề bút hiệu là “Cô Phượng”, được Thanh Tuyền trình bày thật mùi mẫn và trữ tình.
Kiều Xuân càng ngắm càng thấy đẹp. Nếu bây giờ có ai mến thương chàng Lục Vân Tiên quá đỗi mà gọi lộn cô là Kiều Nguyệt Nga cũng không sai chút nào, vì vẻ ngoài của cô cũng tương tợ nàng Kiều kia vậy.
– Cảm ơn bồ nghen. Độ rày nhà tui bán ế quá.
Kiều Xuân vuốt tóc con bạn mà cười buồn, đoạn hỏi sao nấu nước nha-đam ngon quá mà không gởi lên cho ổng uống giải nhiệt.
– Thôi, cho ổng uống ngọt nhiều, ổng bị tiểu đường sao?
– Sao này bồ với ổng mà thành đôi, bồ có theo Cao Đài không?
– Không. Tui có cách sống Đạo riêng của tui. Ổng mà bắt tui theo Đạo ổng, tui từ hôn liền.
Khắc Xương đã vào nhà tự bao giờ mà hai nàng này không hay. Hỏi ra mới hay Út An đã mở cổng cho anh ta vào, vì anh có quen với Hội Thánh Tin Lành Lutheran nên số điện thoại của ai anh cũng đều biết hết.
– Tôi nhớ cô quá nên xuống thăm cô.
Quế Trân nửa mừng nửa mắc cỡ nên kiếm cớ nói lảng:
– Sao cái thùng nước lèo nay thành cái nồi mini rồi?
– Tôi ráng tập thể hình cho ốm bớt… Đi với cô mắc công bị nói là số Nhị Phân.
– Ai cho đi chung mà sợ?
Khắc Xương gãi đầu cười hiền, rồi than đói bụng quá.
– Nè, để tui làm cho anh một ly chuối chưng.
– Tôi có món quà tặng cho cô…
– Tặng chai xịt nách nữa đi rồi tui cho đi luôn.
Khắc Xương tủm tỉm cười. Số là lần trước anh đã tặng nàng chai ” Secret: Spray Dry – Tropical Hibiscus”, làm nàng giận run người. Và sợ nàng giận nữa nên anh cười mơn mà đáp:
– Sữa tắm “Caress – Charcoal and Pink lotus”.
Quế Trân lắc đầu, tỏ ý không hiểu.
– Than và Sen.
– Mèn đét cui! Tui lội sình lặt sen, súng ví lục bình chưa đủ sao mà tặng tui cái chai “đui then” này.
– Cho người ta ăn miếng chuối chưng lấy hơi đi mày ơi, ăn hiếp người ta quài.
Khắc Xương đưa mắt dòm Henrico Thạnh, rồi xây qua nói với Quế Trân:
– Tôi có công chuyện bên Mỹ Tho nên sẵn đường dẫn cô đi chơi rồi qua bển đi làm luôn.
Đôi má Quế Trân ửng hồng. Cô nói nhỏ rí rằng để cô về nhà sửa soạn cái đã.
– Hai tiếng hôn?
– Không tới đâu. Tiếng mấy hà.
Ăn hết hai ly chè, Khắc Xương mới thấy mặt mũi của Quế Trân. Con nhỏ dà quê ấy bận áo cotton không tay – cổ tròn in màu hồng từ đậm tới lạt và mặc quần jeans lửng xanh biển, chân đi đôi giày “Skechers” không có dây buộc mà chàng mập mua tặng hôm bữa.
Khắc Xương mắng yêu:
– Nắng vầy mà không chịu lấy cái nón đội nữa.
Quế Trân thẹn thùng. Nhỉ vốn dĩ đã xấu gái nên điệu bộ mắc cỡ càng làm nó y như mấy con “cà-tun”:
– Tui đen sẵn rồi. Nắng hết ăn da nổi rồi.
– Nè… – Khắc Xương đưa cái nón kết cho Quế Trân.
– Nón đôi hả?
– Ờ.
– Mà mình đi đường nào?
– Đường thủy.
Quế Trân ôm bụng cười ngất ngơ ngất ngưỡng. Chừng kiềm được cơn mắc cười rồi, cô mới hỏi:
– Cái ghe bầu, cái xuồng ba lá, cái vỏ lãi nào kham nổi cái thân bồ tượng của ông?
Khắc Xương đáp tỉnh rụi:
– Đi sà-lan.
Cái sà-lan chở dừa lên Sài Gòn vừa hay còn dư chỗ cho bốn người nên thân hình bồ tượng của Khắc Xương khỏi cần ngồi lên đống dừa. Anh ngồi dựa lưng vào lan-can, chân để duỗi, hai tay dang rộng mà đặt lên lan-can. Ngồi bên cạnh anh, Quế Trân đang ngồi bó gối mà chống cằm đưa mắt ngó cồn Thới Sơn; ông Năm bên ngoại có nhà ở bển, con cái ông Năm năm thì mười họa mới về, lần nào về quê cũng đem cho nhà cổ mấy ký tôm khô Trà Vinh thiệt ngon.
– Cô khum xuống kiếm cái gì ở dưới dạ?
Quế Trân chỉ tay vô bóng người đứng như bóng cây dừa lùn mà cười rằng:
– Ông coi ông đó giống cây dừa lùn hôn?
Khắc Xương bật cười ha hả. Đoạn bẹo gan người thương:
– Công nhận dừa xứ này thương bà con Kiến Hòa ghê. Dừa biết có người cao – người lùn nên mọc ra đủ thứ kích thước cho ai cũng bẻ được… Ui da đau, bà!
– Cỡ ông thì dừa lùn hay dừa cao gì cũng hổng có bẻ được đâu.
– Đưa dừa đây, tôi bẻ cho.
Quế Trân vả nhẹ vô cái mỏ của ông mập mấy cái cho bõ tức.
– Hai đứa bây mà cưới nhau chắc năm năm có nguyên đội banh. Bẹo quá mà!
– Tánh tui zậy nên mới “kết nghĩa Đào Viên” với thằng Thạnh được.
Nghe Phi Nhung ca “Lý Ba Tri” của tác giả Đynh Trầm Ca đâu được vài câu, Khắc Xương day qua nói với con nhỏ cắt tóc Tomboy:
– Tôi muốn tặng cô một khổ trong trường thi “Ta may mắn được làm thi sĩ – Nhờ đã phải lòng con gái Bến Tre” của thi sĩ Luân Hoán…
Đôi má của Quế Trân ưng ửng hồng. Cô cúi mặt mà di di ngón trỏ trên mặt sàn xà-lan.
Khắc Xương hắng giọng, đoạn diễn ngâm:
– “Bậu ơi tin Qua chớ?
Lắng lòng nghe Qua thề
Trước Thần Phan Thanh Giản
Nếu như mà u mê…”
Thấy một đỗi lâu sau mà Khắc Xương vẫn im ỉm không diễn ngâm tiếp, Quế Trân khều chàng cư sĩ Cao Đài mà hỏi nho nhỏ:
– “Nếu như mà u mê” thì sao?
Đang ở giữa dòng nên Khắc Xương đâu dám nói “Nếu như mà u mê” thì sẽ bị đôi Thần Ngỗng ở sông Ba Tri kéo xuống dưới, thành ra anh chỉ tủm tỉm cười duyên. Vả chăng, đôi Thần Ngỗng chưa đưa anh xuống dưới, mà ông Ba Thát đã cho anh toại nguyện rồi.
Không nhận được câu trả lời, Quế Trân cong môi và chống cằm day mặt qua chỗ khác. Mặt sông Tiền chấm đầy những đốm kim tuyến nắng, rỡ ràng đến chói mắt người ta. Những dề lục bình xanh đủng đỉnh trôi theo sóng nước bồng bềnh…
Linh đinh trên dòng Tiền Giang hơn một tiếng, chiếc sà-lan mới tắp vô một con rạch ở Long An. Bấy giờ trời đã chớm trưa, khu du lịch sinh thái rộn vang những tiếng cười nói và cụng ly, nhân viên phục vụ chạy đôn chạy đáo như muốn tắt thở tới nơi mà vẫn không kịp dọn bàn hay dẹp bàn.
– Cúp điện rồi hả? – Khắc Xương vừa hỏi vừa lấy khăn ướt để sẵn trên bàn ra lau mặt.
– Dạ anh. – Nhỏ nhân viên bận áo bà ba đáp nhỏ rí.
– Có chỗ nào mát không cô?
– Xuống dưới mương ngồi. – Quế Trân nhún vai.
Nhỏ nhân viên không dám cười khách, nhưng nín cũng không được, nên hai bờ vai không ngừng run rẩy. Đợi cơn tức cười lắng xuống, nhỏ mới chỉ cho ông khách và bà ghệ của ổng ra đằng đẵng mà ngồi ăn cho ngon miệng.
Thuận theo hướng tay của nhỏ nhân viên, hai người trông thấy một cái bàn vuông nằm lọt thỏm dưới bóng mát của tàng cây sanh đại thụ.
– Í, ăn ở đây, rồi mơi nhà tao lấy giống gì sống?
– Con mời. Có gì mua luôn cho gia đình bên chú luôn.
– Vậy cảm ơn cậu nhiều nhen.
– Tui hổng có ăn phụ ông đâu đó. Gọi vừa đủ ông ăn thôi.
Vậy là Khắc Xương kêu một phần cơm chiên Dương Châu, dồi trường chiên bơ tỏi, rau muống ngâm chua, gỏi mộng-dừa tôm – thịt và canh chua bông bí nấu với cá đuối. Ngó qua Quế Trân, con nhỏ chỉ gọi một dĩa mỳ xào rau – cải, lòng gà và trứng non với một tô súp xí-quách và khô-mực.
– Mấy đứa có hay tin gì chưa?
Khắc Xương vừa nhai đậu phộng rang vừa hỏi:
– Sao chú?
– Vừa có con nhỏ nào đi thử vai sao đó mà bây giờ thành cái xác không hồn rồi.
Bấy giờ cô Tư Lành mới nhớ ra tấm danh thiếp mà cái người tự xưng là đạo diễn đã đưa cho mình hôm bữa, không biết cô đã liệng ở xó nào rồi.
Khắc Xương thở dài:
– Mấy hãng phim lớn bị cái đám buôn người này làm ảnh hưởng lây…
– Ờ. – Ông Ba Thát đáp trong lúc gắp miếng phá-lấu ruột heo chấm nước-tương ớt.
Sau bữa cơm ngon miệng, ba người về lại Mỹ Tho. Quế Trân muốn ra vườn hoa Hồng Lạc ngồi chơi trong lúc đợi Khắc Xương xong việc nên ông Ba Thát lên Sài Gòn một mình; đáng ra ông để hai đứa này kiếm xe về Mỹ Tho rồi, nhưng vì mối ruột của ông sống ở An Phước có mấy cần-xé mận cần chuyển lên thành đô gấp nên ông mới đồng ý cho tụi nó đi quá giang thêm một đoạn nữa.
Thân chủ của Khắc Xương hẹn anh trong một con hẻm gần khu vực tượng đài Thủ-Khoa – Huân. Đây là nơi mà gia đình anh ta ở tạm sau khi bị đứa con nuôi tiếm quyền thừa kế. Nghe tin tổ hợp luật sư “Vì Dân” thường miễn phí cho người nghèo và không lấy tiền trước cho người ngặt, nên anh ta đánh liều nhờ họ giúp đỡ thử.
Ngồi thảo luận về Luật Thừa Kế và coi những bằng-chứng chứng minh di chúc này là giả được đâu hai tiếng, Khắc Xương xin phép ra về. Anh đưa máy ảnh mà biểu gia chủ chụp lại những bằng-chứng này, và không quên nhắc nhở phải đi sao-chép những giấy tờ gì để chuẩn bị cho vụ kiện tụng sắp tới.
Rời khỏi ngôi nhà chật như cái lỗ mũi, Khắc Xương gọi điện thoại đặt xe taxi rồi gọi thêm một cú nữa cho Quế Trân. Xong xuôi hết thảy, anh mới đi ra đầu đường chờ xe.
Đi gần tới đầu đường, Khắc Xương trông thấy một người đàn ông chạy xe gắn-máy, đi ngược chiều với mình, bị làm rớt cái bóp.
Dù muốn dù không, Khắc Xương vẫn phải bám theo người vừa làm rớt cái bóp để trả lại. Nhưng kỳ lạ thay, cứ hễ chỉ còn cách chục mét nữa là anh sẽ bắt kịp được thì người đó lại tăng tốc độ của chiếc xe lên rất cao, thành thử khoảng cách giữa đôi bên càng lúc càng xa.
– Ông nội! Nội của con ơi! Nội làm rớt cái bóp nè!
– Mệt chưa?
Khắc Xương trả lời mà như đang trăn trối:
– Sắp sửa bỏ vô hòm liệm luôn.
– Tôi thấy anh mập quá nên kiếm cớ cho anh tập thể dục thôi.
Người đó vừa mới dứt tiếng, Khắc Xương đã chọi cái bóp vô lưng anh ta.
– Quên tôi rồi hả? Còn nhớ cái người mà anh đã giúp trắng án năm xưa không?
…
Trước lúc trở về thành đô làm việc với mấy cái xác, Martin Cảnh mời Kiều Xuân ra quán cà-phê gần bờ hồ Trúc Giang nói chuyện. Nhưng cô nói mấy quán kiểu vầy không có bán món chi đặc sắc nên mời anh lại cái tiệm mới khai trương hôm bữa mà ngồi uống nước; tiệm này nằm gần khúc bịnh viện Y Học Cổ Truyền, khá rộng rãi và rất sạch sẽ, lại có người giữ xe nên không lo chiếc xe thân yêu không từ mà biệt.
– Anh – Chị uống chi?
Cậu nhân viên là sinh viên đang theo học trên Sài Gòn, vì muốn tiết kiệm tiền trọ nên đã về quê và kiếm chỗ làm thêm. Nhờ vốn liếng tiếng Anh rất khá mà cậu thường được các công-ty du lịch địa phương nhận vô làm hướng dẫn viên “không chính thức”.
Kiều Xuân kêu một ly soda dưa hấu, còn Martin Cảnh uống bạc-xỉu ba màu.
– Cô có muốn nghe tôi kể về mối tình đầu không?
Kiều Xuân gật đầu.
– Cổ đã gởi cho tôi bài “Trước khi từ giã Anh” do Ngọc Lan ca, không rõ ai đặt lời Việt từ tình khúc “Avant de nous dire adieu” của tác giả Michel Mallory – Jean Renard. Bài gốc không được nên thơ như lời Việt, nó có phần hơi trần trụi và giàu nét nhục dục; và người trình bày bài gốc là ca sĩ Jeane Manson – Một người mẫu đã từng cộng tác với tạp chí “Play Boy”.
– Anh và cổ có ngủ với nhau không?
– Có. – Martin Cảnh đáp, rồi phá lên cười. – Tôi đâu phải Tiên – Thánh mà không có ham muốn nhục tình?
– Đó là lần cuối cùng của hai người?
– Phải, nếu như tôi biết, tôi sẽ dành thời gian để khuyên cô ấy đi đầu thú, hơn là…
Nói tới đây, Martin Cảnh thở dài thườn thượt.
Kiều Xuân hỏi:
– Tính đến nay có bao nhiêu mống rồi?
– Gần cả ngàn. Số không tìm ra, số phát hiện, số bay xa và số đi điều dưỡng.
– Cả một đường dây khổng lồ… – Kiều Xuân nhíu mày.
Martin Cảnh gật đầu:
– Binh đoàn của đám đó thì sao? Đám “không trăng – không sao” á.
– Bị tỉa từ-từ. Hai người đang ở trển là tay sai chửi mướn đắc lực cho Bí Danh K, bây giờ Bí Danh K đã thành gà khỏa thân rồi nên mới cuống cuồng tìm đường cứu thân.
– Lên đó tu con mẹ gì. Quỷ phá nhà chay thì có.
– Tụi tôi phải giữ mạng cho họ, chừng nào xong rồi thì để họ tự bơi.
Nghe tiếng đồng hồ Odo vang lên bài nhạc chuông “Kìa con bướm vàng”, Martin Cảnh sực nhớ cuộc họp tối nay mà anh phải tham dự nên vội vàng ngoắc nhân viên lại mà mở hầu bao trả tiền nước.
– Cô đi taxi về nghen? Tôi nghỉ hết một ngày rồi nên không thể trễ thêm được nữa. Nè, tiền taxi nè…
– Thôi, tôi có tiền rồi, anh để dành đổ xăng đi. Từ đây về Sài Gòn hao xăng dữ lắm. Độ rày một lít xăng bằng một giếng dầu đó.
Trước lúc ra về, Martin Cảnh đặt mua một ly cam vắt ít ngọt rồi mượn nhà vệ sinh một lát. Còn Kiều Xuân cũng mở máy mà đặt taxi, cô không muốn làm phiền Khắc Xương nên không nhờ vả chàng ta.
– Ủa? Chưa có xe hả cô?
– Dạ chưa anh.
Martin Cảnh phì cười. Rồi vừa cài nón bảo hộ vừa bình phẩm:
– Cô nói chuyện với tôi nghe cứng cỏi quá. Còn nói chuyện với…
Kiều Xuân nhếch miệng cười:
– Tôi có thể là Parvati, Durga hay thậm chí là Kali. Tùy thuộc vào người đối diện là ai và hành xử với tôi như thế nào.
oOo
Bữa nay tòa soạn “Canh Tân” ra ngoài ăn cơm bụi để kỷ niệm việc sắp sửa bị đình bản một tháng do “phạm húy”.
Ông chủ nhiệm khoe rằng tranh thủ bị cấm xuất bản một tháng ổng sẽ dẫn gia đình qua Thái Lan chơi một chuyến. Anh Ba Hói “thư ký tòa soạn” cũng nói sẽ dẫn cả nhà đi về Cà Mau ăn cua; đương nhiên sẽ rủ luôn thằng em cù bơ cù bất. Mấy ký giả kia nghe hai người “cầm đầu” ung dung tự tại quá thì ngoài mặt cười mà trong lòng lại mếu.
– Mấy cậu là người đã viết phóng sự về vụ xác chết mất nội tạng trong hẻm A78 hả?
– Dạ. – Ông chủ nhiệm vừa nhịp giò vừa vuốt râu hỏi. – Bác muốn coi nữa hôn?
– Muốn chớ. Đang gay cấn mà.
– Tháng tới-tới đi nghen. Tụi con bị cấm xuất bản một tháng rồi.
– Tổ cha thằng mất dạy nào bóp cổ bây vậy?
– Nhiều quá kể sao hết bác.
– Rồi mấy đứa này lấy cái gì sống?
– “Ông Trời sanh voi sanh cỏ. Không ai đói mà bác lo…”
– Giờ ổng còn có sức ca bài “Không giờ rồi” của Cô Phượng (Vinh Sử) nữa.
– Cho tao ngồi tán dóc với mấy bây được hôn?
– Được chớ. “Tứ hải giai huynh đệ” mà.
Ông già thứ Tám bèn ngoắc con trai chủ quán lại và biểu mình đổi bàn, để mắc công lát nữa nó nói mình kiếm cớ ăn quỵt.
Để khỏi lộn xộn mất vui, nhóm người tòa soạn “Canh Tân” đều gọi một dĩa cơm tấm thập cẩm, một chén canh chua chay và một ly nước mía – khóm – hạnh.
Ông Tám hỏi:
– Mấy cậu nghĩ như thế nào về nhóm chữ “Dân tộc Kinh”? Xưng “Tôi” – Gọi “Ông, đừng có sử dụng kính ngữ nghen.
Xương Tuyết trả lời liền:
– Đối với tôi, tôi là người Việt không phải người Kinh. Ai thích gọi người Kinh giống như bên Tàu thì cứ việc gọi.
Một người bạn đồng nghiệp của Xương Tuyết cắt ngang:
– Bây giờ bên Tàu còn đánh đồng dân Tân Cương, dân Duy Ngô Nhĩ, dân Tây Tạng và một số dân-tộc thiểu số khác là “người dị vực” nữa.
Đợi cho tiếng cười lắng xuống, một ký giả có cái đồng điếu gần mép trái hỏi:
– Mà chữ “Kinh” từ đâu ra hả anh?
– Từ giới cầm bút Đàng Ngoài chứ từ đâu. Gần như tất cả tác phẩm biên khảo của Đàng Trong đều ghi “Việt”, lâu lâu lọt chọt vài cây viết ngoài vĩ tuyến vô đây mới ghi “Kinh” thôi.
Ông Tám vừa khuấy ly cà-phê vừa hỏi:
– Nói rõ hơn được không?
– Kể sơ qua thì có “Đại-Nam Quấc Âm tự vị”, quyển Một, trang 520 – 521; “Việt ngữ chánh tả tự vị” trang 244; “Việt Nam tự điển” của Hội Khai Trí Tiến Đức trang 267. Tôi chưa thấy một cuốn tự điển xuất bản ở trong Nam trước năm 75 nào nói chữ “Kinh” có nghĩa ám chỉ dân tộc này hết.
Một ký giả đầu đinh hỏi trong lúc rưới nước mắm lên phần cơm:
– “Sử dụng” hay là “Xử dụng” anh?
– “Sử dụng”. “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị”, quyển Hai, trang 312; tác giả là cụ Paulus Của. Cụ là người Nam Kỳ rặt nên mong rằng đừng phán cụ bắt chước lối nói của dân Đàng Ngoài.
Một ký giả có vết thẹo ở đuôi lông mày phải đặt câu hỏi:
– Vậy “Xóm giềng” hay “Láng giềng”?
– “Xóm diềng” là của miền Nam. Và “Láng giềng” là của miền Bắc. Cho nên mỗi bận tôi viết về người Nam Kỳ tôi sẽ xài chữ “Xóm diềng”, còn nếu là dân Bắc thì tôi sẽ dùng chữ “Láng giềng”.
– Chữ “Xóm diềng” ở đâu hả anh?
– Cũng trong quyển Hai chứ đâu. Chịu khó tự tìm số trang đi.
– Chỉ luôn đi mà.
– Trang 588. Đọc tới đó rồi lướt mắt xuống sẽ thấy chữ “Ngồi xỏm” và “Ngồi xổm” khác nhau như thế nào; vì không rành chữ Nôm lẫn Hán – Việt nên nhiều người, trong đó có cả tôi, đã nghĩ lầm hai chữ trên là của dân Bắc. “Việt Nam tự điển” của Hội Khai Trí Tiến Đức thì ghi ở trang 656.
Đồng Điếu lại hỏi:
– Vậy “Rên xiết” hay “Rên siết”?
Xương Tuyết lắc đầu:
– “Rên siếc” mới đúng chính tả. Có thể kiểm chứng ở “Đại Nam Quấc Âm tự vị”, quyển Hai, trang 296 và “Việt Nam tự điển” của Hội Khai Trí Tiến Đức, trang 490. Chữ “Xiết” có nghĩa là “Chặt”, “Mạnh” và “Hành động quyết liệt”; thí dụ như ôm xiết, xiết nhà, xiết tay,… Còn chữ “Siết” có nghĩa là “Cắt ngang” hoặc “Chận đứng”; thí dụ như dao siết, siết cổ,…
Ông Tám ngạc nhiên:
– Té ra là sách – vở thời nay in sai gần hết ráo rồi.
Anh Ba Hói nhếch miệng cười:
– Hậu quả của “đốt sách” đó.
Ông Tám hỏi:
– Còn chữ nào mà Nam – Bắc xài khác không?
Xương Tuyết gật đầu:
– Bắc Kỳ nói “Bảng” là “Biển”, nói “Biển” là “Bể”, nói “Bể” là “Hồ”. Thí dụ rõ ràng hơn thì ngoài Bắc kêu là “Cái biển”, “Cua bể” và “Bể bơi”; còn trong Nam kêu là “Cái bảng”, “Cua biển” và “Hồ bơi”.
Ông Tám chưng hửng hỏi:
– Vậy chỗ nuôi cá kiểng kêu là gì?
– Bắc Kỳ kêu là “Bể cá cảnh”, còn Nam Kỳ kêu là “Hồ cá kiểng”.
Ông chủ bút lại quầy thu ngân mà đặt mua cho gia đình ổng mấy hộp cơm. Vừa mới trở về bàn, chưa kịp yên vị, đã nghe ông Tám hỏi ông rằng:
– Anh nghĩ sao về những video về Tàu?
– Ít có ai đăng tải video về Tàu mà chọn nội dung là những mảnh đời cơ cực, nghèo khổ hay phong cảnh bị ô nhiễm ở các vùng chưa phát triển; thường thì họ lựa toàn những khu cao sang như Trùng Khánh, Thẩm Quyến, Phúc Kiến,… không hà.
Anh Ba Hói gật gù:
– Thì bên đây cũng vậy thôi. Mang tiếng phim truyền hình – điện ảnh thực tế mà ít có phim nào dám quay chân thật về tầng lớp nghèo khổ và những khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng. Toàn tự huyễn hoặc nhau “tốt lắm”, “phát triển lắm” không hà.
Người bạn đồng nghiệp ban nãy lại chen ngang:
– Mắc cười nhứt là những đoạn phim quay về đời sống nông thôn “dị vực” mà người ghi hình lại có khuôn mặt rặt Ba Tàu, tay chân thì trắng nõn – không có lấy một vết chai hay thương tích, ăn bận thì sạch sẽ – bảnh bao; nói là dàn dựng thì giãy đành đạch lên không chịu nhận.
Xương Tuyết xòe hai bàn tay của mình ra cho mọi người coi. Một vết cắt ở ngón út do bị xà-beng quẹt trúng, không có ngón nào là mềm mịn hay không bị u nần. Đoạn nói:
– Đừng có biện minh là người ta xài máy móc nên tay chân lành lặn. Làm cái nghề gì liên quan tới bàn tay – bàn chân thì ít – nhiều gì hai chỗ đó cũng bị biến dạng và thương tật hết. Thí dụ như việc văn phòng chẳng hạn, đánh máy riết mu bàn tay thì nổi gân xanh, mười đầu ngón tay thì mòn nhẵn; nếu thường xuyên cầm-bút viết và ký thì ngón chịu lực còn bị chai nữa, thậm chí bàn chân dễ bị sưng phù do ngồi quá lâu và bị giãn tĩnh mạch.
Người bạn có thói quen cắt ngang lời người khác lại xọt vô:
– Bộ làm nông là lúc nào cũng phải rớ tới máy móc sao? Đi thăm vườn tược mà thấy cái gì không đặng là phải dùng tay hoặc sử dụng nông cụ thô sơ mà xén sạch, ở đó mà nói…
Mày Thẹo hỏi Xương Tuyết:
– Anh có biết cuốn nào về vấn đề sắc tộc ở Việt Nam mà độ khả tín cao không?
– “Nguồn gốc Mã-Lai của dân tộc Việt-Nam” – một biên khảo đáng lưu tâm của ông Bình Nguyên Lộc. Trong sách, ông có liệt kê những tài liệu mà ông đã tham khảo để thực hiện tác phẩm này; và những tài liệu đó cái nào cũng đáng để tìm hiểu cả.
Ông Tám vừa lựa vé số cho một đứa nhỏ vừa hỏi:
– Cụ Paulus – Của còn cuốn sách nào hay không cậu?
– Dạ có. “Tục ngữ, Cổ ngữ, Gia ngôn”. Rất mong mọi người sẽ tìm đọc để hiểu lời ăn tiếng nói của dân Nam Kỳ thuở xưa thành hình ra sao.
Ông Tám lại hỏi:
– Cậu nghĩ xứ Nam Kỳ thành lập có sự đóng góp của dân Đàng Ngoài không?
– Dạ con hổng biết. – Rồi Xương Tuyết mở máy để đọc một đoạn văn. – Theo cụ Hồ Biểu Chánh, trong tác phẩm “Đỗ Nương Nương báo oán”, chương Một: Bĩ-thới-tuần-hườn, thì cụ viết như vầy:
“… Cuộc nam-tiến của các đời Chúa Nguyễn được thành-công rất vẻ-vang chỉ nhờ sức cố-gắng của thần-dân từ Quảng-Bình trở vô mà thôi. Từ Hà-Tỉnh trở ra Bắc, nhơn-dân là phe đảng của Chúa Trịnh, nghịch hẳn với Chúa Nguyễn nên không có tham-dự cuộc nam-tiến rực-rỡ đó.”
Ông Tám trầm ngâm:
– Vậy theo ý của cụ Chánh, dựa trên sự suy diễn của tôi, thì Đàng Ngoài hổng có công cán gì với Đàng Trong hết.
Xương Tuyết gật đầu.
Ông Tám hỏi nữa:
– Theo cậu thì độ khả tín bao nhiêu?
– Tôi nghĩ là hơn sáu mươi phần trăm. Do cụ sống ở thời xưa, tài liệu gốc còn nhiều, lại biết rành chữ Nôm và chữ Hán, nên những gì cụ dựa theo để sáng tác tiểu thuyết có độ khả tín khá cao.
Anh Ba Hói nhếch miệng cười:
– Bây giờ còn có ông giáo sư khăng-khăng cho rằng Pháp chia ba miền thành: Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ nữa.
Ông Tám cười ha hả:
– Vua Minh Mạng thì “Kỳ”. Mà vua Thành Thái cũng “Kỳ”. Con cháu sau này học Sử còn kỳ hơn.
Xương Tuyết bật cười:
– Coi xuất thân ông đó là tự hiểu tại sao ổng nói vậy.
Mày Thẹo cười nửa miệng:
– Đừng tin con lươn sống ở rạch mà lạch-chạch thành con rồng. Cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ mà thôi.
Đồng Điếu thắc mắc:
– Tại sao cứ phải nhất-mực cho rằng Pháp chia ba miền làm “Tam Kỳ” vậy?
Ông Tám phá lên cười:
– Biết rồi mà còn hỏi.
Anh Ba Hói tự nhiên nói:
– Nhắc mới nhớ, không hiểu tại làm sao mà cuốn “Việt Nam tự điển” của “Hội Khai Trí Tiến Đức” bị tái bản với tên tuổi khác. Tức là nhóm tác giả dày công biên soạn thì bị gạch tên, thay vào đó là danh xưng của mấy ông ất ơ không có công cán gì ở Đàng Ngoài; đã vậy còn sửa luôn nội dung và xóa bớt nội dung tài liệu của người ta nữa.
Ông chủ nhiệm thấy đồ ăn ít quá nên kêu cho mỗi thằng đệ một cái đùi gà góc-tư chiên nước mắm; thằng nào thích ăn cơm chiên cứ gọi, ông sẽ bao hết. Ông Tám cũng được ông mời ăn, nhưng ông này lại gọi món tôm kho tàu chứ không ăn gà vì răng cỏ hết nhai nổi món dai rồi.
Ông Tám tâm tình:
– Ba cái bài báo “Một ngày gọt vỏ chanh kiếm được xxx tiền…”, “Một ngày chạy xe giao đồ được xxx tiền”,… cũng là một dạng góp phần ngu dân.
Ông chủ nhiệm cười hỏi:
– Sao anh nghĩ vậy?
– Tại vì khuyến khích lao động chân – tay chứ không khuyến khích lao động trí tuệ. Mà muốn quốc gia phát triển vượt bậc thì cần cả hai, chứ không thể nghiêng chiền theo một bên nào được.
Ông chủ nhiệm dù đã biết thừa những vẫn nói theo cho ông Tám vui:
– Hèn chi nhiều đứa có bằng Đại học, thậm chí đang làm bác sĩ hẳn hoi, lại bỏ nghề đi giao đồ mướn hoặc mở quán bán hàng.
Ông Tám gật gù:
– Đối nghịch với những bài viết trên là những tin nhân viên Y Tế, Khoa Giáo,… lương không đủ sống và phải “nhám tay” để có thêm tiền sinh hoạt hằng ngày.
Ông chủ nhiệm hỏi Xương Tuyết:
– Sao lần trước tôi mời cậu ăn mà cậu không ăn vậy?
Xương Tuyết cười khổ:
– Đồ ăn liền đóng hộp do Tàu sản xuất tôi ăn không hợp. Lần nào ăn vô cũng bị mất vị giác và đau bao tử.
– Sao lúc đó không từ chối?
– Có biết đâu. Đi lấy tin ở phương xa được người ta mời thì ăn thôi, chừng thấy cơ thể không khỏe mới hỏi lại ban nãy nấu đồ ăn liền của nước nào, thì hết bảy lần người ta nói là hàng Tàu, tôi cũng coi qua bao bì rồi nên mới dám khẳng định chuyện này.
Ông chủ nhiệm nói mà như đang kể khổ:
– Con tôi nó bị ba cái video rù quến, mua ba cái món gì đâu không hà.
Anh Ba Hói đổi đề tài:
– Bữa trước tao hỏi mày, mày nghĩ ra câu trả lời chưa?
Xương Tuyết gật đầu:
– “Trọng lượng không tải” và “Trọng lượng toàn tải”.
– Được a.
Mày Thẹo nhận xét:
– Mà cũng ngộ đời ở chỗ, hồi trước thì đụng đâu cũng xài chữ thuần Việt, giờ thì toàn xài mấy cái chữ Hán – Việt không cần thiết. Thí dụ như xài chữ “Tử vong”, đụng tin gì cũng xài chữ “Tử vong”, sao mà nghèo nàn chữ nghĩa quá vậy?
Ông Tám liệt kê:
– Chết, qua đời, vong mạng, thiệt mạng, tử nạn, tử thương, lìa trần, lìa đời, bỏ mạng,…
Đồng Điếu kể:
– Bữa nay có khứa ghi “Bêu giếu” nữa.
Anh Ba Hói phì cười:
– Rồi biết quê quán ở đâu rồi đó.
Ông Tám hỏi ông chủ nhiệm:
– Ông thấy cô Tư và ông Lộc sao?
– Nội dung trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư không bằng nhà văn Bình Nguyên Lộc. Nếu muốn rõ lời tôi, xin mời đọc cuốn “Ký thác” của ông Lộc rồi hãy so sánh với những truyện ngắn mà cô Tư sáng tác.
– Ông thích tác phẩm nào nhứt?
– “Ba con cáo”, đã đạt được một giải thưởng danh giá bên Pháp.
Ông Tám lại hỏi:
– Ông có tác giả nào khá có tiếng tăm bên ngoại quốc nhưng chìm nghỉm bên đây không?
– Có, ông học giả Trịnh Xuân Thuận. Lai lịch của vị này cũng thú vị lắm. Và một điều mà tôi rất phục vị này là ông thông thạo tiếng Pháp như người bản địa.
Anh Ba Hói tự nhiên ôm bụng cười sặc sụa.
Xương Tuyết cười khổ:
– Lại nhớ đến “Chuyện xưa tích cũ”…
Ông chủ nhiệm liền bắt anh Ba Hói phải kể liền.
Anh Ba Hói nói trong hai hàng nước mắt:
– Hồi đó đi công tác xứ Mỹ với thằng này, vô một cái chợ của người Mỹ trắng, tới chừng ra quầy tính tiền, nó trả lời sao mà bà bán hàng, “Merci beaucoup”, với nó. Bả tưởng nó người Pháp gốc Á!
Nguyên bàn không niệm tình đồng nghiệp mà thi nhau cười cái rần.
– Ai biểu mày vừa học Pháp vừa Anh, giờ mày nói tiếng Anh giọng Pháp mẹ nó rồi.
Ông chủ nhiệm quở:
– Trời ơi, học cái gì cho rành cái đó, học ba chớp ba nháng làm chi hổng ra giống ôn gì!
Xương Tuyết lắc đầu cười trừ:
– Còn nhớ có lần viết “Essay” về đề tài du lịch, thay vì viết “suitcase” hay “luggage”, tôi viết lộn thành “valise”. Hậu quả là bị trừ điểm.
Ông chủ nhiệm chép miệng hỏi:
– Rồi giờ cậu nói tiếng Anh khá hơn chưa?
Xương Tuyết lắc đầu:
– Giờ nói tiếng Anh theo khẩu âm của Pháp luôn rồi. Đánh lưỡi mấy vần “R” thì lai Tây Ban Nha.
Ông chủ nhiệm phá lên cười:
– Vậy là xong đời rồi. Ai từng đời nói giọng Anh – Anh, Anh – Mỹ, Anh – Úc, Anh – Sing,… Cậu quất luôn Anh – Pháp.
Mày Thẹo thương tình hỏi:
– Vậy chắc anh giỏi tiếng Pháp lắm?
Xương Tuyết lại lắc đầu:
– Không, không, tuyệt đối không. Chẳng qua tôi nói tiếng Pháp đúng giọng hơn tiếng Anh một chút xíu thôi.
Rồi gã điên nói như tự trách mình:
– Cũng bởi cái tật học sinh ngữ chụp giựt nên giờ tôi hay viết lộn lắm. Cũng may có anh Ba Hói chỉnh sửa giúp…
Anh Ba Hói vỗ vai thằng em kết nghĩa mấy cái đầy thâm tình. Thâm tình đến nỗi lưu lại mấy vệt đỏ như “Giáng Long Thập Bát Chưởng” trên lưng nó.
Xương Tuyết la đau, rồi day qua tâm tình với nhóm bạn làm báo:
– Tôi khâm phục cụ Petrus Ký học quá chừng thứ tiếng mà vẫn sử dụng lưu loát từng loại.
Nói Leo tiếp:
– Tôi nhớ có đứa con nít nào học nhiều thứ tiếng như cụ Ký mà bị “rối loạn ngôn ngữ” luôn. Một câu mà nó ráp vô mấy thứ tiếng; giống vầy nè: Tôi mange rice.
– Nhớ rồi. – Ông chủ nhiệm vỗ đùi cái bốp, rồi chỉ vô mặt Đồng Điếu mà rằng. – Bữa đó tôi điều cậu đi phỏng vấn phụ huynh nó để ghi bài. Nhớ chưa?
Đồng Điếu “À” lên một tiếng, rồi gật đầu xác nhận:
– Nhớ ra rồi sếp.
Trước lúc chia tay nhau, Đồng Điếu níu Xương Tuyết lại mà hỏi:
– Facebook của anh là gì?
– Facebook chính của tôi chỉ có vài người thân thuộc biết thôi.
– Vậy cái kia…
– Là của nhỏ em. Tôi thích nói chuyện như nó mỗi khi xài, thành thử ra nhiều người hay bị lầm lắm.
– Anh có thích tranh luận với người trên mạng không?
– Không. Tôi thích tự tranh luận với tôi hơn.
– Tại sao?
– Gặp người khôn tranh luận mở mang thêm kiến thức, còn gặp người ngu không chịu nhận mình dốt chỉ tổ uổng phí thời gian. Tôi không muốn dựa vào người khôn để có kiến thức, càng không muốn mất thời giờ vì một người ngu, đó chính là lý do tại sao tôi lại tự tạo những cuộc tranh luận rồi tự mình phản biện luôn.
– Nếu như anh tự tạo tình huống “đối kháng Bản Ngã” mà người ta nằng nặc cho rằng anh đá đểu người ta thì sao?
– Thì thây kệ họ.
Anh Ba Hói lắc đầu cười méo xẹo.
– Anh có học Triết không?
– Tôi không đủ trí khôn để vào ngành Triết đâu, dù rất thích ngành này.
– Nói huỵch toẹt ra là mày ghét học Triết theo kiểu bị “nhồi sọ”. Hồi xưa mày là đứa duy nhứt trong lớp không xài văn mẫu mà giáo viên đưa mà; cái nết như vậy rồi đòi “hòa đồng” sao được.
Đồng Điếu mời Xương Tuyết một điếu thuốc Con Mèo. Vừa đưa tay nhận lấy, gã điên vừa tâm tình:
– Nhưng dù không vào ngành này, tôi vẫn dành thời gian viết các bài luận về ngành này, cho vui thôi, chớ không mộng mị đi đâu cả.
– Dù không được một xu và chẳng có ai công nhận hay đem ra phản biện?
– Ừ. Viết vui mà. Tôi cũng khoái chơi cái trò đóng giả sinh viên Triết viết bài luận, tức là bữa nay tôi viết theo giọng con gái hiền dịu, bữa khác đóng vai cậu học trò hay quạu quọ và cộc tính. Số bài luận của tôi không nhiều lắm, vì lâu lâu viết vài dòng và bị bí ý nên ngâm hoài ngâm hủy.
– Như cụ Bùi Giáng há, “Vui thôi mà.”
– Ừ, “Vui thôi mà.”
Anh Ba Hói đội nón bảo hộ giùm thằng em. Lát nữa anh và nó sẽ ngao du Vũng Tàu một chuyến.
– Thành thử tôi ghét mấy khứa viết văn mà than vãn và tự tiếc thương mình này nọ. Viết được thì viết, không viết được thì bẻ bút quăng sọt rác, có khóc đến thất khiếu chảy máu cũng đách ai liếc mắt tới đâu.
Đồng Điếu vừa bỏ đồ vô cốp-xe vừa ngước mắt nhìn lên vòm phượng đỏ. Tự nhiên anh bồi hồi nhớ lại một thời mực tím lem tay đã qua, đã hàng ba rồi mà nghiệp văn bút chẳng đi tới đâu hết.
Sau vài hơi thuốc lá, Xương Tuyết tâm sự:
– Tôi không nhớ rõ câu nói đó của ai, hình như là của cụ Trần Dần, đại ý như sau, “Mai này tôi chết, nhớ chôn bản thảo tôi theo.”
– Ý của anh là người phát biểu câu trên không than vãn phải không?
– Phải. Mơi mốt nhà văn sẽ thành “nhà than”, đi tới đâu than tới đấy, nghe mà mắc mệt.
– Nếu họ không than thì đâu có ai biết họ là nhà văn, nhà thơ?
– Ờ há!
Rồi Đồng Điếu kể:
– Cái người Việt nào sống ở xa xứ mà có dấu hiệu đám đó cho là “phản động” và “chống phá” thì đám đó lựa hình chụp xấu mà đăng lên; ngược lại, đám giải trí bên Tàu ủng hộ các quyền lợi phi lý của nước chúng thì lại lựa hình chụp đẹp mà đăng lên! Thứ dòng ác nhà mọp chợ!
Anh Ba Hói nhếch môi nói:
– Anh làm tôi nhớ đến cái vụ quyên tiền ủng hộ một diễn viên nam bên Tàu.
Xương Tuyết bỗng nói mà như đang tự sự với bản ngã của mình:
– Sẽ còn phải rất lâu xứ này mới có lại Duyên Anh, Hồ Hữu Tường và Võ Phiến: Dám nghĩ và Dám viết; một Bùi Giáng, một Vũ Hoàng Chương: Hồn thơ lai láng và khoáng đạt như bầu trời ngày gió lộng; một Hồ Biểu Chánh, một Huỳnh Tịnh Của, một Trương Vĩnh Ký, một Vương Hồng Sển, một Huỳnh Minh, một Nguyễn Văn Hầu,…: Yêu quê Cha – đất Tổ và không ngừng tìm hiểu quá khứ để “Giữ thơm Quê Hương”; những chàng thi sĩ dễ thương như Nguyễn Tất Nhiên, Nguyên Sa,… Những thiên diễm tình đẹp đẽ mà đôi tay của Nguyễn Đình Toàn, Mai Thảo, Nguyễn Thị Hoàng,… đã từng dệt trên khung trời Văn Học. Kể cả Bình Nguyên Lộc và Doãn Quốc Sỹ, còn ai đủ sức sáng tạo như hai vị ấy không?
Chỉ cần lấy một trong số những người tôi vừa nêu và đem đi so sánh với các tác phẩm thời nay, anh thấy bên nào mới xứng danh văn sĩ và thi sĩ?
– Anh cho tôi Facebook của anh được không?
Xương Tuyết vén mấy cọng tóc lòa xòa nơi vầng trán dô lì lợm:
– Được.
– Có điều gì mà anh không làm được không Tuyết? Trong việc cầm bút ấy?
– Viết văn lãng mạn, ướt át và diễm tình như người ta, tôi làm không được. Lần nào thử sức là thất bại lần đó.
– Anh nghĩ sao về mấy bài văn đạt điểm cao?
– Nếu chấm theo thang điểm của cụ Nhất Linh, họ sẽ bị điểm liệt hết. Có thể tham khảo ở cuốn “Viết và đọc tiểu thuyết” của cụ.
– Cậu có biết tại sao mà nó viết lâu không?
Đồng Điếu lắc đầu.
– Tánh nó rất dài dòng văn tự, thành thử mỗi bận viết một đoạn phải nghỉ ba ngày để gọt giũa và sửa lỗi chánh tả. Ấy vậy mà vẫn sai sót đầy dẫy.
Đồng Điếu chép miệng:
– Dạ, với lại vừa viết vừa suy nghĩ cũng làm mình ghi lâu lắm anh. Con người chứ đâu phải cái máy ghi âm mà cầm bút lên là chữ nghĩa đổ tràn ra trang giấy được. Có khi tôi mất năm ngày trời mới viết được một trang khá nhứt.
Xương Tuyết cười nói:
– Tôi đọc cho anh nghe đoạn này, của tôi, chứ không phải của ai đâu:
“Bữa cơm gia đình là một trong những điều quan trọng nhất của đời người. Đã có ông A từng nói, “Giang hồ ta chỉ giang hồ dỏm – Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà.” Đó, ngay cả một thi sĩ yêu đời tự do như vậy mà vẫn coi trọng bữa cơm gia đình. Do đó bữa cơm bữa gia đình là một trong những điều quan trọng nhất mà đời người nên trải qua, dù khó khăn cách mấy cũng nên thực hiện, để mai này lìa đời ta mới không hối hận.”
Rồi anh nghĩ sao?
Đồng Điếu vừa cười vừa phê bình:
– Dài, dai, dở và láo. Vì cái ông thi sĩ mà anh trích thơ của ổng hổng có yêu đời tự do chi sất, đó chỉ là một phút ngẫu hứng thốt lên trong lúc ổng đang ngoạn cảnh phương xa mà thôi. Còn câu đầu với câu cuối y chang thì gộp làm một luôn cho rồi, vừa thừa ý vừa dư lời.
Anh Ba Hói trề môi:
– Tôi thấy xóa bà nó luôn cho rồi. Viết văn kiểu này đọc đau mắt bỏ mẹ.
Ba người phá lên cười sặc sụa.
Xương Tuyết tiếp:
– Cụ Bùi Giáng bút lực tràn trề như vậy mà phải mất cả ngày trời mới viết được hàng chục trang giấy. Và dẫu văn chương lai láng khó ai bì kịp, cụ vẫn bị mắc lỗi “lặp lại chính mình”: Càng lớn tuổi, ý thơ của cụ càng bị trùng lặp và không còn tươi mới như hồi trẻ nữa.
Anh Ba Hói nói:
– Nếu ai muốn biết thế nào là “dai, dai mà không dở” thì nên tìm đọc sách của Bùi Giáng, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Đình Toàn và Hồ Biểu Chánh; để coi người xưa sắp chữ ra sao mà câu văn vừa rõ nghĩa vừa đủ ý mà không gây mệt mắt cho người đọc.
Đồng Điếu góp lời:
– Còn nhớ ông chủ nhiệm không? Hồi xưa ổng từng chửi một đứa: “Cậu đâu phải con bò mà ngồi nhai đi nhai lại một ý hoài vậy?” Xong khứa đó sùng máu nghỉ việc luôn. Nghe đâu vỡ mộng Nobel rồi nên giờ đi giao đồ mướn kiếm sống.
Xương Tuyết kể:
– Tôi có quen với một em thi Văn được 9 điểm, tôi hỏi bà nội của ẻm rằng ẻm có đọc sách nào không thì bà nội của ẻm trả lời là không, bà nói nó ở nhà toàn học, chơi game và làm việc nhà không.
Đồng Điếu la lên:
– Trời ơi, vậy sao biết sách nào mà trích dẫn?
Anh Ba Hói nhếch miệng cười:
– Văn mẫu.
Xương Tuyết tiếp:
– Mang tiếng giỏi Văn mà không biết một ông tác giả nào khác ngoài mấy cái tên trong sách giáo khoa, cũng như không hiểu các chủ nghĩa triết học trên thế giới và tư tưởng của ai hết. Mà tôi có hỏi chi xa xôi đâu? Tôi hỏi về Hồ Biểu Chánh thôi mà cũng trả lời không được, vậy mà trích dẫn trong bài kiểm tra thì ngon ơ.
Đồng Điếu lắc đầu thở dài.
Xương Tuyết nói mà mắt cứ dán lên vòm phượng đỏ như đang tìm kiếm kẻ vô hình ẩn nấp trên đó:
– Hồ Hữu Tường và Vũ Hoàng Chương, cái thời đi học của hai văn sĩ được đề cử giải Nobel Văn Học ấy điểm Văn không ai cao hết và cũng chẳng có ai dám xài văn mẫu để đạt được điểm cao. Tôi không tài nào hiểu nổi bản thân thì khoe mình là học trò giỏi Văn mà làm bài nào cũng xài văn mẫu hết, không biết cái tối kỵ nhứt của một người cầm bút là ăn cắp “chất xám” của người ta ư?
Anh Ba Hói bổ sung:
– Bên Tàu có một cái lệ rất hay: Hễ ai thi Văn được điểm cao là bài viết của người đó sẽ được công khai rộng rãi trên phương tiện truyền thông đại chúng. Tôi có đọc được vài bài và công nhận bài nào cũng xứng đáng được chấm điểm cao.
Xương Tuyết pha trò:
– Giờ mà tôi hỏi “Saint-Exupéry” là ai dám nhiều đứa trả lời là ông Thánh bên Kitô Giáo lắm.
Đồng Điếu hỏi:
– Anh nghĩ sao về chuyện nhiều người cho rằng thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên giả điên trốn lính?
– Giả điên trốn lính mà sau này dám tự sát hả? Ban đầu chú bị bịnh thần kinh nhẹ, rồi vì biến động thời cuộc mà chuyển sang tâm thần luôn. Tôi bị mắc bịnh thần kinh nên tôi biết, một người bị thần kinh nhìn bên ngoài vật trâu còn chết nhưng trong tâm can của họ đã bị giày xéo nát tan rồi, chỉ cần một biến cố thôi là có thể đẩy họ sang bờ vực tâm thần.
– Mày nói mày bị thần kinh gọn lỏn hà Tuyết.
– Anh bị bịnh gì?
– “Rối loạn thần kinh thực vật”, “Rối loạn thần kinh – tim” và “Rối loạn ám ảnh cưỡng chế”, đã từng uống thuốc Tây một thời gian nhưng không khỏi nên đã chuyển sang sắc thuốc uống. Thành ra tôi cũng biết một số tên gọi của thuốc điều trị.
Đồng Điếu hỏi:
– Anh nghĩ sao về nhà văn Duyên Anh?
– Tôi không thích Duyên Anh không có nghĩa là tôi chê văn tài của ổng. Nhận xét về tác phẩm và đánh giá về một con người nên tách bạch ra hoặc bổ túc cho nhau hơn là gộp chung theo chiều hướng cảm tình của bản thân dành cho người đó.
– Nó dài dòng nữa rồi đó.
– Anh có thể cho tôi coi thử một bài văn thuở rất xưa của anh không?
– Được thôi.
“Haruki Murakami và Thăng trầm của bánh nướng Nhọn Mỏ.
Câu chuyện lấy bối cảnh một anh thanh niên vì quá rảnh rỗi nên đến dự hội nghị “Bánh nướng Nhọn mỏ” để giết thời gian. Và đã nhận được một lời cảnh báo bí hiểm từ cô gái ngồi bên cạnh, ngay sau khi anh ta buột miệng chê bánh ăn không ngon. Mọi người ở cuộc hội nghị ấy giống hệt như một đám cuồng tín, họ chăm chú lắng nghe tới từng tiếng nuốt nước bọt cho đến cách nhả chữ của ông giám đốc công ty đã quá ngũ tuần.
Câu chuyện sẽ trở thành bình thường nếu Murakami dừng lại tại ̣đây. Nhưng không, ông không dừng lại tại đây.
Một phần thưởng lên tới cả triệu Yên dành cho ai sáng tạo ra công thức bánh nướng nhọn mỏ mới phù hợp với giới trẻ, mà vẫn dựa trên nền tảng công thức xưa, đã thu hút anh chàng thanh niên nhàn tản ấy. Anh ta tin vào khẩu vị của mình, tin vào công thức của mình; và hơn hết cả, anh ta đặt trọn niềm tin vào bản thân rằng sẽ chiến thắng trong cuộc thi này.
Giống như những tác phẩm và truyện ngắn trước đây của Murakami, chẳng có nhân vật chính nào có thể nếm mùi chiến thắng một cách trọn vẹn, mà không có những điều kiện dị kỳ và đen tối đi kèm. Anh chàng này cũng thế! Khi hay tin mình đã chiến thắng cuộc thi kỳ cục này, anh ta chắc mẩm số tiền khổng lồ ấy đã nằm gọn trong tay và bao nhiêu dự định cứ thế tuôn ra như thủy điện xả lũ. Nhưng, một chữ “Nhưng'” của tay giám đốc đã đẩy món tiền thưởng về phía trước, khoảng cách bằng đúng từ nhà anh đến cái công ty lạ lùng ấy.
Vâng, hoàn toàn lạc quan và dửng dưng, anh ta nghĩ “Tại sao không thử đến đó thuyết phục đám người một phen nhỉ? Chỉ cần đặt cược một bãi nước bọt, liền có cơ may lãnh được hai triệu Yên…” Dạng tính cách này có trong hầu hết tuyến nhân vật của Murakami, ngoại trừ nhân vật Naoko trong “Rừng Nauy”.
Xông xáo đến đó với hộp bánh nướng nhọn mỏ mới làm thơm phức, anh ta được vị giám đốc dẫn đi gặp Thần Quạ Nhọn Mỏ trong truyền thuyết và đồng thời là vật biểu tượng của công ty.Bước vào gian phòng với hàng trăm, hàng ngàn con quạ mù lòa với cái mỏ nhọn hoắt đậu kín khắp nơi, anh ta nửa choáng ngợp, nửa lại dự cảm không lành.
Tay giám đốc lần lượt cho anh xem biểu hiện của bầy quạ khi ăn các loại bánh nướng nhọn mỏ. Đầu tiên là loại công thức cũ, sau đó là các loại công thức mới của những thí sinh bị loại. Hễ ông ta ném các loại công thức mới là lũ quạ lại cất giọng phản đối: “Bánh nướng nhọn mỏ… Bánh nướng nhọn mỏ…”
Đợi cho anh bớt kinh ngạc trước cảnh tượng kỳ khôi ấy, tay giám đốc mới ném những mẩu bánh trong hộp bánh mà anh đem đến.
Bất ngờ thay, khi tay giám đốc ném những mẩu bánh trong hộp bánh của anh ta, đàn quạ đều lặng câm suy nghĩ. Rồi sau một quãng thời gian không quá dài nhưng cũng đủ khiến cho nhịp tim anh ta đánh đu vì hồi hộp, bầy quạ liền chia làm hai phe: Bên trẻ vui vẻ tiếp nhận công thức mới và Bên già tru tréo gào lên “Bánh nướng nhọn mỏ”, “Bánh nướng nhọn mỏ”,… Tình hình bắt đầu ngày một nghiêm trọng khi Phe Già xông tới cắn xé Phe Trẻ, ngăn cản chúng không được tiếp cận thứ văn hóa ngoại lai; thậm chí, những con bên Phe Già sẵn sàng sát hại cả những con phản nghịch bên phe chúng một cách không thương tiếc, bởi lẽ trong đầu chúng chỉ tồn tại có mỗi bánh nướng nhọn mỏ công thức cũ, chứ không hề có xíu nào gọi là đạo lý, phải trái hay luân thường gì sất…
Cuối truyện, sau khi chứng kiến cảnh tượng bát nháo do bầy quạ mỏ nhọn gây ra, anh ta đã từ chối thỏa hiệp với công ty và ôm hộp bánh nướng nhọn mỏ của mình về nhà.
Bạn thử đoán xem nhân vật chính trong câu chuyện này có thể là ai?
Đoán thử xem.
Không phải ai xa lạ đâu.
Bingo.
Là Murakami Haruki đấy.
Theo suy diễn của tôi, ông ấy ví hội văn học Nhật Bản với những con quạ nhọn mỏ sẵn sàng chĩa cái mỏ nhọn vào bất kỳ tác phẩm nào không tuân theo lối hành văn quen thuộc, hay không thể hiện tinh thần yêu nước rõ rệt. Họ phê phán lớp trẻ và tỏ ra lo ngại khi nhìn thấy giới thanh, thiếu niên càng ngày càng “Mỹ hóa” mà quên đi những nét văn hóa-nghệ thuật quê nhà. Nhưng Murakami không đồng tình với lối suy nghĩ có phần bảo thủ ấy, ông cho rằng mỗi thời mỗi khác, lớp trẻ thời nay có quyền hội nhập với những nền văn hóa đa quốc gia.
“Tôi muốn tự mình làm ra món mình thích mà ăn. Còn lũ quạ ấy cứ xâu xé nhau đến chết tiệt cả đi là tốt nhất.”
Câu kết bài đã khẳng định quan điểm của ông về con đường văn chương của mình trong tương lai. Mặc kệ những lời ác ý và châm chọc, ông vẫn sẽ rảo bước trên con đường văn chương theo sự dẫn dắt của bản ngã, tuyệt không thỏa hiệp chỉ đề vừa lòng một nhóm cá nhân nào đó.”
Một đỗi lâu sau, Xương Tuyết mới hỏi Đồng Điếu:
– Hết hồn chưa?
– Sao giọng văn của anh bây giờ và ngày xưa nó… – Nhưng rồi Đồng Điếu lặng thinh hút thuốc, có lẽ anh đã tìm thấy một bầy quạ nhọn mỏ đang bay lượn trên văn đàn xứ Việt và sợ bị chúng mổ nên đành ngậm tăm.
– Mấy câu trong ngoặc kép là tôi chép nguyên văn hoặc dựa theo ý từ bản dịch tiếng Việt của dịch giả Phạm Vũ Thịnh.
– Mày mà đi thi Văn là rớt chắc. Làm bài phân tích tác phẩm kiểu gì mà… có nhiêu đó.
– Trước giờ em thi Văn có khi nào quá Tám đâu. Nói chính xác hơn là trên Bảy một chút xíu thôi.
Sau khi hai bên đã đồng ý trở thành bạn trên Facebook, người bạn cà-phê mới chịu lên xe ra về.
– Tuyết.
– Gì vậy anh Ba?
Anh Ba Hói rũ mắt không nói.
– Em mới vừa đi đốn chuối mướn được một mớ cũng khá. Hai anh em mình xuống dưới tha hồ ăn đồ biển nhen?
Anh Ba Hói cười mà đôi mắt ướt rượt:
– Nhà văn gì mà phải đi đốn chuối mướn…
– Em đâu phải nhà văn. Em chỉ là một người thích viết mà thôi.
– Vậy ra mấy bữa nay mày không viết là vì tay đau hả?
– Không, em không thích viết đặng viết đùa.
Bỗng Xương Tuyết ôm bụng cười sặc sụa.
– Sao cười vậy mậy?
– Ban nãy anh đã nêu ra lý do rồi, mà giờ còn hỏi lại em nữa…5